Trích nhật báo
Người Việt, số 6838 ngày 27 tháng 8 năm 2004.
Cô Vũ Ngọc Mai nguyên là Giáo sư
Trường nữ Trung Học Lê Văn Duyệt ở
Saigon. Định cư tại Hoa Kỳ,
tuy tuổi đă cao nhưng cô vẫn theo đuổi sách
đèn và dạy học tại Học khu Long Beach. Từ năm 1996 đến 1999
và từ năm 2002 đến nay, cô đảm nhận
Hiệu Trưởng Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam.
Đóng góp cùng quư thầy cô trong Ban
Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California, cô
có mặt trong những Khóa Huấn Luyện & Tu Nghiệp
Sư Phạm để yểm trợ qua một số
công tác, bài viết và tham gia trong Ban Giảng Huấn.
Hiện nay, cô là thành viên Hội
Đồng Quản Trị và Trưởng Tiểu Ban
Giải Thi Viết Văn của Giải Khuyến Học.
Trong Khóa HL & TNSP Kỳ 16 vào tháng 8
vừa qua, cô đă gặp gỡ các khóa sinh tham dự
để trao đổi kinh nghiệm với nhau
để công việc giảng dạy tiếng Việt cho
con em tại hải ngoại được hiệu
quả hơn – VTrD.
Hàng
năm các Trung Tâm Việt Ngữ Miền Nam California vẫn
tổ chức Khóa Huấn Luyện và Tu Nghiệp Sư
Phạm cho giáo chức dạy Việt Ngữ
từ khắp nơi về tham dự. Đây là một đóng góp rất đáng
đề cao của Ban Tổ Chức. Khóa học đă được sự
hưởng ứng đông đảo của học viên và
sự yểm trợ của cộng đồng.
Từng đến với Khóa Tu Nghiệp
Sư Phạm trong suốt 8 năm qua, tôi không khỏi vui
mừng khi nh́n thấy tận mắt những nỗ
lực giữ ǵn tiếng Việt của tất cả các
lứa tuổi từ 15 đến 86. Mỗi năm tôi thấy Thầy Phan Ngô yếu
đi một chút song ḷng yêu tiếng Việt th́ vẫn không
bao giờ suy giảm.
Chúng
ta đă mang cái tâm t́nh ấy đến với Lớp Tiếng
Việt trong suốt trên hai mươi năm qua. Hôm nay tôi muốn ghi lại
những ư kiến trong cuộc thảo luận của các
khóa sinh trong lớp tôi, sau đó thử rút ra một số
kinh nghiệm hữu dụng cho hành trang nhà giáo Việt
Ngữ nơi đây.
Làm
thầy Việt Ngữ tại hải ngoại không dễ
dàng và đơn giản như người ta thường
nghĩ, cho dù đó chỉ là một việc thiên nguyện
không thù lao.
Thật
vậy, bất cứ làm một việc ǵ chúng ta cũng
muốn đạt được kết quả tốt
đẹp. Đứng
trước lớp học, mỗi lời thầy cô nói ra
đều là khuôn vàng thước ngọc cho biết bao mái
đầu xanh đang chuyên cần lắng nghe. Cho nên, tất cả chúng ta
đều muốn trở thành những người
thầy hội đủ một số điều
kiện thích hợp cho việc dạy tiếng Việt cho
trẻ nhỏ nơi đây.
Điều khó hơn nữa là chúng ta phải t́m ra
một số phương cách giúp cho các cháu yêu thích
tiếng Việt, yêu thích trường học mà không
cần cha mẹ phải nhắc nhở hay bắt
buộc.
Trước
hết, người thầy cần hiểu biết về
tâm lư trẻ em. Càng khôn
lớn, các em càng thoát dần sự bao bọc của
phụ huynh để xây dựng một ư thức hiện
hữu về bản ngă, về cái “tôi” của chính ḿnh. Tuổi trẻ thích độc
lập, ưa t́m ṭi, thí nghiệm những điều mới
lạ, và chịu ảnh hưởng của bạn bè.
Tuổi
trẻ cũng có những nhu cầu như: nhu cầu được
chấp nhận, được coi là phần tử
của nhóm, muốn trở thành người tự tin,
được thành đạt nơi học
đường, nhu cầu vươn lên…
Sau
khi đă hiểu tâm lư và nhu cầu của từng em th́
việc giáo dục các em trở nên khá dễ dàng. Nội dung bài học cần
được gắn liền với đời sống
thực tế, sao cho các cháu cảm thấy gần gụi
và sẵn sàng tham gia các sinh hoạt trong lớp.
Bên
cạnh phần tâm lư, thầy cô cũng cần thông
thạo tiếng Anh nũa.
Mặc dầu chúng ta luôn khuyến khích các em nói
tiếng Việt, song cũng có những từ ngữ
phải được cắt nghĩa bằng tiếng Anh
v́ không phải tất cả
học sinh đều có tŕnh độ tiếng
Việt ngang nhau.
Trong
phần thảo luận và trao đổi kinh nghiệm
giảng dạy, khóa sinh Nguyễn Tiến Sĩ thuộc
Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam tại Westminster đă cho
rằng: “Về tiếng
Việt, thầy cô không bị trở ngại. Song nếu các em được
sinh ra ở Anh, Canada, ở Mỹ chẳng han, và là công dân
những nước ấy, th́ tiếng Việt đă
trở thành một sinh ngữ.
Do đó, người thầy cần có khả năng
Anh Văn trước, kế đến là khả năng
sư phạm.”
Đó
là những điều kiện khá lư tưởng và thật
hiếm quí, nhất là ở những tiểu bang ngoài Cali,
nơi chỉ có thưa thớt người Việt
Nam. Theo thầy Nguyễn
Dũng, Trường Việt Ngữ Văn Lang tại
Portland, Oregon th́ “số người có sư phạm rất
ít, trái lại, giáo viên không được huấn luyện
chuyên nghiệp, có khó khăn về vấn đề tài
liệu và môn Văn phạm.”
Thầy cũng đề nghị khóa học nên
được kéo dài hơn, v́ thời gian 3 ngày thật quá ngắn ngủi
cho những điều muốn học.
Cô
Lê Minh thuộc Trung tâm Hồng Bàng c̣n hăng hái hơn
với đề nghị “bắt buộc giáo viên mỗi
năm phải đi tu nghiệp càng đông càng tốt.” Cô c̣n muốn khóa tu nghiệp kéo
dài trong 5 ngày, hoặc tổ chức vào 2 cuối tuần
thay v́ chỉ có một như hiện nay.
Cô
Hoàng thị Thịnh, Trung Tâm Việt Ngữ Về
Nguồn tại San Jose, cho rằng “thời gian kéo dài th́
tốt nhưng không công b́nh cho những người ở
xa.” Cô thấy ưu điểm của trường
Việt Ngữ là “đa số học sinh rất ngoan, và
giáo viên đă góp phần trong việc dạy dỗ con em”
song trường cô cũng có sự bất tiện là v́
thiếu lớp nên không thể phân chia theo lứa tuổi
v́ theo cô “lứa tuổi khác nhau th́ sự tiếp thu cũng
sẽ không đều nhau.”
Theo
tôi, mặc dù không đủ lớp, vào đầu niên khóa,
chúng ta vẫn có thể cho học sinh thi xếp lớp
để cho các em vào những lớp thích hợp nhất
cho tŕnh độ và lứa tuổi của các em. Nếu sau đó thầy cô
nhận thấy tŕnh độ vẫn chưa thích hợp
với một vài em th́ họ có thể đề nghị
lên Ban Giám Hiệu để cho những em này lên hoặc
xuống lớp.
Tưởng cũng cần nói thêm rằng, tŕnh
độ cao hay thấp c̣n tùy thuộc vào yếu tố
thời gian các em bắt đầu học Việt Ngữ
mà không chỉ căn cứ vào tuổi tác mà thôi.
Khi
bàn đến phương cách giúp cho lớp học thành
công và có thể lôi cuốn được
sự chú ư của học sinh, không khí thảo luận
đă sôi động hẳn lên.
Khóa sinh Thảo Đỗ, giáo viên lớp 4
Trường Tustin, cho
rằng người thầy luôn phải có những
“chương tŕnh back-up activities, với khoảng nửa
tiếng sinh hoạt, nhất là vào những dịp lễ
tết.” Cô muốn nói
đến các tṛ chơi bingo, game có tính cách giáo dục… Ngoài
ra, giáo viên nên khen ngợi học sinh “bằng lời và
bằng phần thưởng.”
Khi được thưởng, học sinh lên pḥng
Hiệu Trưởng để chọn những món ḿnh
ưa thích. Đây là một
cách nâng cao ḷng tự tin và sự hănh diện của các
em. Nhờ vậy mà lớp
học của cô luôn sinh động, và đă có “95% các em làm
bài tập ở nhà
‘homework’ hàng tuần”
Cô
Nguyễn Thanh Hồng, Giáo viên Lớp 5 Trung Tâm Văn Hóa
Việt Nam, đă giúp các em yêu thích tiếng Việt bằng
cách tạo ra một không khí thân mật, gần gụi
với học sinh, cho thực hành tại lớp những điều
vừa học, và dùng một hệ thống câu hỏi
để giúp học sinh hiểu bài. Cô cũng ra đề Tập Làm Văn cho các em
tập viết thêm ở nhà.
Cô
Hoàng thị Thịnh đến với từng em, hỏi
han, sửa cách đặt câu và lỗi chính tả. Theo cô, có sư phạm không hoàn
toàn là điều kiện đủ mà “đầu năm
phải có training. Nên mời
những người thích dạy học làm phụ giáo,
huấn luyện thêm cho họ trong 1, 2 năm, sau đó th́
họ có thể trở thành giáo viên của trung tâm rồi.”
Cô
Lê Minh của Trung Tâm Hồng Bàng th́ tuần nào cũng
như tuần nấy, “cám ơn các em (đă đi học
tiếng Việt) và cám ơn cha mẹ các em” (đă
đưa đón các em ).
Những lời cám ơn nghe mới thấm thía và
dễ thương làm sao!
Cô
Lê Minh c̣n thêm: “Cần nhất
là tinh thần.” Vâng, 2
tiếng tinh thần đă gắn liền với trái tim,
với tấm ḷng của người thầy, mà theo tôi,
đó là chất lửa trong ḷng, sự hăng say, nỗi
hăm hở truyền dạy những ǵ hay đẹp
nhất, lư tưởng nhất cho tuổi trẻ Việt
Nam thêm phần hănh diện khi t́m về với nguồn
cội của chính ḿnh.
Thêm
vào đó, một trong những đức tính của
người thầy là sư tích cực trong việc
soạn bài và giảng bài.
Trong lớp học, người thầy cần tránh
độc thoại mà trái lại, nên khuyến khích tối
đa sự tham gia phát biểu của học sinh, bằng
những câu hỏi gợi ư, bằng những lời khen
ngợi hoặc phần thưởng nho nhỏ…
Người
thầy nên theo nguyên tắc đọc đúng từ cái
dấu hỏi, dấu ngă cho đến phân biệt
giữa s và x, giữa tr và ch, giữa r và d hoặc gi, có g
hoặc không g... Khi
đọc chính tả, chúng ta nên cố gắng quên đi
cái điạ phương Bắc- Nam-Trung của ḿnh
để chú tâm đọc cho đúng ngơ hầu giúp học
sinh viết đúng.
Đươc như vậy, chúng ta đă tránh cho
học sinh sự bối rối trong khi viết, v́ chúng ta
phải công nhận rằng chính tả là một môn học
rất khó đối với các em được sinh ra và
lớn lên ở đây.
Bên
cạnh việc đọc đúng, người thầy c̣n
phải đọc hay nữa.
Lư do là v́ đọc đồng nghĩa với
diễn cảm, lchuyên chở ư và lời cách nào để
học sinh cảm nhận được giá trị
của bài văn.
Người thầy cần đọc to, rơ ràng,
chậm răi và truyền cảm để lôi cuốn sự
chú ư và ḷng yêu bài văn ngay từ phút đầu. Theo thiển ư, người
thầy không chỉ dạy bằng miệng với nụ
cười và lời hay ư đẹp, mà c̣n diễn tả
bằng mắt với cái nh́n biểu lộ t́nh cảm vui
buồn, yêu ghét, hay dở, và
cả bằng cử chỉ, điệu bộ nữa. Sự vận dụng ngũ quan
một cách hồn nhiên của mỗi thầy cô sẽ giúp
cho lớp học luôn linh hoạt mà không buồn chán như
khi chúng ta chỉ cố gắng nhồi nhét vào đầu học
sinh những điều mà các em không mấy quan tâm
đến.
Nhưng
ngoài năng khiếu của mỗi nhà giáo, thầy cô nên
dùng trợ huấn cụ để làm cho bài giảng thêm
rơ ràng, giúp học sinh lănh hội mau hơn, và nhớ lâu
hơn. Trợ huấn cụ
nơi đây thật đủ thứ: bản đố, tranh vẽ, h́nh ảnh, âm
nhạc, CD, slide, video, overhead projector…Giáo viên cũng có
thể tự làm lấy và “sáng chế” ra những học
cụ theo ư riêng của ḿnh dựa theo nội dung bài giảng.
Tại
những lớp lớn như cấp 7 và 8, thầy cô có
thể cho học sinh làm bích báo, soạn bài thuyết tŕnh cá
nhân hoặc toàn đội, ra những đề tài tranh
luận để gây sự thích thú cho cả lớp. Thầy cô có thể kêu gọi
phụ huynh giúp đỡ t́m tài liệu với con em, và
sự tham dự của phụ huynh vào các buổi
thuyết tŕnh tại lớp.
Ngoài
ra, thầy cô giỏi c̣n có nhiều đức tính khác
nữa, chẳng hạn như sự ḥa đồng,
sự thông cảm, tính vui vẻ, hài hước, cái khả
năng biến một lớp học tẻ nhạt thành
vui nhộn: đó chính là
nghệ thuật dạy học của người
thầy. Do đó, cần
để ư từ lời nói, giọng đọc
đến cách nh́n, dáng đi và trang phục…Khi đă gây
được sự thích thú cho học sinh rồi th́ các em
sẽ mong đợi giờ học, vâng lời và sẵn
sàng làm theo lời dạy dỗ của thầy cô.
Trong phần linh tinh, thầy Lê Công
Thịnh đă tâm sự với chúng tôi rằng “xưa kia
tôi đi sinh hoạt thiếu nhi, rồi vào Đại
học, rồi tự học hoài, và rồi đi làm
thầy Việt Ngữ.”
Điều này chứng tỏ rằng, không cần có
sư phạm, nhưng với quyết tâm học hỏi
th́ trở thành thầy cô giáo Việt Ngữ không phải là
điều quá khó khăn.
Tôi đă thấy rất nhiều thiếu nhi thánh
thể thoạt tiên là học sinh lớp Việt Ngữ,
khi lớn lên làm phụ giáo, rồi bước vào nghề
như thầy cô của ḿnh, sau khi đă đi dự
một vài Khóa Tu Nghiệp Sư Phạm. Đây cũng là một
điều đáng mừng v́ chúng ta biết chắc
rằng công việc duy tŕ tiếng Việt và văn hóa
Việt đang được các thế hệ trẻ
tiếp nối.
Thầy
Thịnh có một thắc mắc:
“làm cách nào dạy học sinh nhận dấu lẹ
hơn.” Cô Hoàng thị Thịnh đă góp ư như sau “các em
phải có căn bản ở lớp dưới,” nghĩa
là chúng ta phải dạy học sinh về dấu giọng
thật kỹ trước khi các em có thể lên những
lớp cao hơn. Đây là
một quá tŕnh học hỏi cần nhiều kiên nhẫn
và thời gian ôn tập.
Khóa sinh Trần Kim Hồng đă nêu lên
một vấn đề khó khăn khi có một em “ngỗ
nghịch, hay bỏ lớp đi ḷng ṿng.” Tôi đă góp ư bằng cách
đề nghị cho em làm trưởng ban trật tự
trong lớp, giao chút trách nhiệm cho em cảm thấy ḿnh
quan trọng, được sự tin cậy của cô giáo
và bạn bè mà bớt xao nhăng việc học đi. Người viết đă
gọi đùa phương cách này là “dĩ độc
trị độc.” Đa
số học viên đồng ư với tôi, và đă
đưa ra một vài thí dụ để chứng minh
điều họ tin là đúng.
Tuy nhiên, thầy Nguyễn Dũng
cũng nêu ra vấn đề áp dụng kỷ luật
nếu cần, gồm 3 bước: “cho làm việc với giám thị, mời cha
mẹ đến nói chuyện, cho nghỉ nếu cả 2
giải pháp đầu đều không có hiệu
quả.” Và theo cô Hoàng
Thịnh th́ “không nên để con sâu làm rầu nồi canh.”
Trên đây là một số ư kiến và
kinh nghiệm của người thầy Việt
Ngữ. Những kinh
nghiệm này phần lớn nhấn mạnh vào những
đức tính, những nỗ lực, những
phương pháp, cũng như vai tṛ và tâm t́nh của người
thầy Việt Ngữ nơi hải ngoại.
Mười sáu Khóa Huấn Luyện và Tu
Nghiệp Sư Phạm đă là những dịp rất
tốt để bổ túc cho Giáo Viên Việt Ngữ
một số vốn kiến thức, và đồng
thời giúp cho hành trang của nhà giáo thêm phong phú trên con
đường thực hiện lư tưởng “lưong
sư hưng quốc.”