Tôi đi dạy trường Mỹ...
Thu
Lê ( gs. LêVăn Duyệt )
(Bài này đă được đăng ở
báo Liên Trường 2004)
Khi tôi
sang đất Mỹ theo làn sóng tỵ nạn năm 1975,
tôi không hề nghĩ là ḿnh sẽ tiếp tục nghề
dạy học, nhất là lại dạy học sinh Mỹ. Sáu tháng đầu, khi các
trường học ở Hoa kỳ, nhất là California,
đang lúng túng không biết phải làm ǵ với các học
sinh Việt Nam bất th́nh ĺnh kéo nhau vào ngưỡng
cửa trường, t́m được những
người như tôi chắc họ phải mừng
lắm. Tôi có việc ngay,
cùng với một cô giáo Mỹ, lo phụ trách lớp
dậy Anh ngữ cho khoảng 20 con emViệt Nam đủ cỡ tuổi ở vùng Ventura. Sau 6 tháng khi khóa học chấm dứt, các em
được gửi về trường để
nhập vào ḍng chính (main tream), tôi được nhận vào
dậy toàn thời gian ở trường trung học
tráng niên Ventura (Ventura Adult High School) giúp đở các học
sinh Mỹ tuổi từ 16 trở lên. Các học tṛ của tôi đa số ở
tuổi 18, 20 là những học tṛ không theo
được những qui tắc g̣ bó của các
trường trung học thường (học từ 8
giờ sáng đến 3 giờ chiều), muốn tà tà
đi làm thêm, thích vui chơi, không có mộng đi học
tiếp đại học, hoặc thiếu một hai
lớp và có thể là không
có đủ số lớp để tốt nghiệp cùng
với các bạn. Tôi có
đủ các thành phần học sinh và nhận thấy
dậy ở trường này “gay go” hơn ở các
trường trung học thường v́ các học sinh
đa số thuộc loại “ch́”, không được ngoan
như học sinh các trường kia. Ngoài ra cũng có những học sinh lớn
tuổi, cỡ 30, 40 hay già hơn. Có vài ông bà nội
ngoại tuổi 50, 60 muốn trở lại trường
thực hiện giấc mơ lúc c̣n trẻ chưa
đạt được (học hết trung học)
để cảm thấy hănh diện với con cháu.
Một bà quyết định đi học lại
để làm gương cho 2 đứa cháu ngoại mà bà
đang nuôi sau khi bố mẹ chúng ly dị nhau và mỗi
người một ngả.
Có bà lấy chồng lúc chưa học hết trung
học, ở nhà giúp chồng nuôi con khôn lớn. Lúc
đứng tuổi th́ chồng bỏ đi theo
người trẻ hơn. Bà
bị ném ra ngoài đời không có một nghề ǵ,
phải đi học lại để hy vọng đi làm.
Trong
thời gian 25 năm dạy trường tráng niên Ventura, tôi
đă học được rất nhiều, biết
nhiều về đời sống và cơ cấu gia
đ́nh Mỹ, biết nhiều về thanh thiếu niên cùng
cỡ tuổi của các con ḿnh.
Hàng ngày tiếp xúc với bọn trẻ Mỹ, tôi
để ư, cảm nhận nhiều hơn những sự
khác biệt về văn hóa, nhận biết về chính
ḿnh và văn hóa ḿnh, ư thức được sự khác biệt của cá nhân tôi trong môi trường
văn hoá Mỹ. Những buồn phiền bực bội
lúc đầu, cùng những cố gắng hội nhập
hay vùng vẫy để vượt qua những khó khăn
do cái “khác”của ḿnh trong hoàn cảnh mới cũng
để lại nhiều kỷ niệm vui buồn.
Tôi
nghĩ là ai ở vào thời điểm đó (1975) bỗng nhiên phải rờ́
bỏ quê hương sang một nơi xa lạ đều gặp khó khăn trong vấn đề
hội nhập. Khi tôi có
việc ngay, tôi tự cho là
may mắn đă được tiếp tục theo
đuổi nghề dạy học mà tôi vẫn cho là
một nghề cao đẹp và lư tưởng. Nhưng nếu chỉ kiếm
được một việc ǵ làm văn pḥng hoặc
“phía trong hậu trường sân khấu”, không phải
tiếp xúc với đám đông th́ chắc là thoải mái
về tinh thần hơn, hoặc là không thấy rơ việc
hội nhập trở thành một vấn đề. Hoặc nếu chỉ ở nhà
trong sự bao bọc của gia đ́nh nhỏ th́ cũng
cảmthấy an toàn và đở bị khắc
khoải, dằn vặt cùng cảm tưởng cô
đơn thấy ḿnh không giống ai. Đấy có thể cũng chỉ là tâm sự
của riêng tôi.
Những
ngày đầu tiên đi dạy trường trung học
tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ
của học tṛ Mỹ, tôi không khỏi so sánh với
những ngày tôi c̣n dạy ở trường Lê văn
Duyệt. Tôi c̣n nhớ
một buổi họp mặt cuối năm ở Ventura mà
tôi tham dự lần đầu tiên do học tṛ của 3 lớp tổ chức chung. Mỗi người, thầy
cũng như tṛ, đều mang một món ăn để
góp vào. Tôi cứ đi từ
ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi thấy
học tṛ xếp thức ăn ra bàn, vắn
tắt tuyên bố nhập cuộc, rồi tự
động xếp hàng lấy đồ ăn, rồi kéo
nhau ra ngồi từng nhóm, từng cặp. Chẳng ai phải mời ai, tṛ
không thắc mắc ǵ đến các thầy cô, không
nhường thầycô lấy đồ ăn trước
nói ǵ đến việc lấy đồ ăn cho thầy
cô. Chả có lời “phi lộ”. Cũng chẳng thấy ai
yêu cầu ai hát hay làm cái ǵ cho
vui. Ông phụ tá hiệu
trưởng và cũng là giáo sư cố vấn
bước vào trễ, chả thấy ai đứng lên
mời mọc ǵ. Ông nh́n quanh,
thấy một học sinh chắc là ông đang kiếm
đang ngồi ăn một ḿnh.
Ông lại gần, quỳ khuỵu một chân
xuống để được nói chuyện với con
nhỏ và nh́n thấy mặt nó trong khi con nhỏ vừa
tiếp tục ăn vừatrả lời. Nói xong ông
đứng lên, cầm đĩa giấy để lấy
đồ ăn và đi t́m đồng nghiệp đang
ngố ở cuối pḥng. Tôi
đứng đó, cứ nghĩ hoài về những ngày c̣n
ở trường Lê văn Duyệt với những
bữa tiệc tất niên vui nhộn, sửa soạn
tưng bừng, và thầy tṛ thân thương, thấy ḿnh
lạc lơng và buồn ghê gớm.
Những ǵ trước mắt tôi không phải là dở,
là sai, là tệ.
Nó chỉ nhắc nhở tôi là tôi “khác”. Mấy đứa ngồi ăn
với nhau, rồi bỏ ra ngoài hút thuốc. Thế mà
cũng gọi là party! Hôm
đó tôi chẳng ăn ǵ mấy v́ ...chả có ai mời,
và cũng không cảm thấy tự nhiên ăn uống
đi lại. Tôi biết
văn hóa tôi đă cho tôi quá nhiều “self-consiousness”, quá
nhiều thắc mắc sợ thiên hạ nghĩ về
ḿnh như thế nào, và cũng cho nhiều sự rụt rè
nhút nhát (inhibitions), nhưng biết làm sao đây? Làm sao ḿnh có thể thay đổi một sớm một chiều
được?
Những
tuần lễ đầu tiên dạy trường Mỹ, tôi
thật lúng túng v́ không làmsao nhớ nổi tên và mặt
mũi mấy đứa học tṛ. Ḿnh không có thói quen nh́n thẳng vào mặt
người đối thoại lúc nói chuyện,
chỉ thoáng thấy đứa nào cũng da trắng giống
nhau, và đứa nào cũng cao lớn hơn tôi. Tôi than
thở với đồng nghiệp, “Tôi không thể nhớ nổi mấy đứa
này. Chúng nó đều
giống nhau.” Các bạn
Mỹ của tôi phá lên cười bảo, “ We think you
Asians look alike, too!” Sau này lâu
dần mới phân biệt được mầu mắt,
mầu tóc và tên họ.
Chẳng hạn như tên Lopez th́ biết là gốc Tây
Ban Nha, La Belle là gốc
Pháp, Bruno là gốc Ư, vân vân...
Tuy
gọi là trường trung học tráng niên nhưng
đa số là học tṛ dưới18 tuổi. Các học sinh đến học
vào giờ khác nhau tùy theo sự thuận tiện
của họ, nhưng phải đến theo đúng
giờ đă định.
Một hôm, cô học tṛ tóc vàng rất trẻ của
tôi đến trễ, tới bàn giấy của tôi và nói, “
Bà Lê ạ, tôi đi trễ v́ tôi kiếm măi mới
được người trông con cho tôi.” Tôi vui vẻ chấp nhận, “
Không sao em. Mà em c̣n trẻ thế mà đă có gia đ́nh
rồi à?” (It’s ok, dear. Oh,
you’re married? You’re so young!) Cô bé tṛn mắt nh́n tôi có vẻ
ngạc nhiên, “No, I’m not. Why did you say that?” Lúc đó tôi mới nhận ra là
ḿnh đă nói một câu “lăng nhách”v́ cứ đem cái
đầu óc cổ hũ Việt Nam của tôi ra mà phán
đoán. Ở Việt Nam th́
ai nói về con ḿnh một cách hồ hởi như
thế`th́ phải là có chồng con cưới hỏi
đàng hoàng, c̣n không th́ dấu nhẹm đi chứ.
Lại nhớ
đến vốn liếng Anh ngữ của ḿnh lúc c̣n
đi học, những lỗi lầm về văn phạm
hay văn hóa mà ngay cả bây giờ, những lúc xuất
kỳ bất ư tôi vẫn mắc phải hoặc c̣n
thấy ở bạn bè người Việt dù ở Mỹ
đă lâu năm. Hồi tôi
sang Mỹ học trước năm 75, tôi c̣n nhớ
người bạn Việt của tôi viết 1 mảnh
giấy nhỏ cho tên bạn cùng lớp, bắt đầu
rất trịnh trọng, “Dear Mr. John,...” không biết
rằng khi đă thân mật gọi tên John th́ không cần
Mr. ǵ cả và nếu muốn dùng Mr. hay Mrs. th́ phải dùng
với tên họ như Mr.
Jones, Mrs. Phạm, Mr. Trần, v.v.
Chắc anh bạn cũng chỉ chú mục vào
chuyện dịch như ḿnh vẫn thường gọi ông
Ba, bà Tám chứ không biết “dịch là phản dịch”!
Cũng vấn đề “mắc dịch”
đó, ḿnh hỏi người ta, “Cô có chồng chưa?”
bằng câu, “Are you married yet?” hoặc khi bị hỏi câu
đó th́ các cô gái Việt hay trả lời “No, not yet” thay v́
“Are you married?” và câu trả
lời đơn giản,
“No, I’m not.” hay “Yes, I am.” Câu
trả lời “No, not yet” bao hàm một sự hứa hẹn
rất là ....văn hoáViệt
rằng, “Tôi chưa có
chồng và con gái lớn ai không phải lấy chồng!”
Rố lại
có vấn đề lủng
củng trong việc trả lời “có”hay “không”. Tiếng Việt ḿnh, nhất là
ở miền Nam, cái ǵ cũng trả lời “Dạ”
cả th́ biết đâu mà đoán.
Chẳng hạn ḿnh hỏi, “You don’t like it, do you?”
(Chị không thích cái đó phải không?) th́ thế nào các bà
giáo Mỹ cũng được nghe câu trả lời
từ học tṛ Việt, “Yes,
I don’t like it.” làm bà giáo Mỹ lại ngẩn mặt
ra, không biết rằng cô học tṛ Việt muốn
nói, “Dạ, tôi đồng ư với điều bàn nói,
tôi không thích nó.” trong khi đáng lẽ phải trả
lời, “No, I don’t like it.” hay “Yes, I do.” Đến chữ
“can”và “can’t” th́ c̣n..mê hồn trận hơn
nữa. Bà giáo Mỹ luôn luôn
phải hỏi lại “You can or you cannot?” Cũng có rất nhiều
lần, không chú mục vào việc làm, tôi xếp hồ
sơ học tṛ theo tên gọi như trong tiếng
Việt, và báo hại khi cần đến t́m hoài không ra.
Nhiều khi ḿnh cũng có quan niệm
người Mỹ rất là tự nhiên, rất là “casual”
nên có khuynh hướng lạm dụng sự thân mật
đó. Tôi c̣n nhớ có lớp
Anh ngữ dạy buôỉ tôí, một học viên cứ
gọi co âgiáo nheo nhéo, “Linda, Linda, I want to say..”. Thực sự, ở
trường học, các tṛ luôn luôn phải gọi thầy
cô bằng Mr. hay Mrs. chứ không được gọi tên
trống không. Họ của tôi
là Lê nên các học tṛ gọi tôi
là Mrs. Le (đọc là “lay”chứ không phải là
Lee). Một hôm đến
trường, nh́n vào bảng tên tôi vẫn để trên
bàn, thấy có tṛ nào nghịch đă viết thêm chữ Z
(đọc là zee) vào sau tên của tôi!
Những ngày dậy ở VN tôi không hề
hoặc không phải nghĩ về pháp lư như ở
đây. Lúc nào cũng ngại làm không đúng luật, sợ
bị kiện. Nhưng dù có
lưu tâm đến đâu, ḿnh được tôi luyện
trong “ḷ”cũ, vẫn không tiên đoán hay nghĩ ra
được những chuyện sẽ xẩy ra. Chỉ học dần bằng
những kinh nghiệm sống!
Tôi c̣n nhớ lần trả lời điện
thoại một phụ huynh hỏi con trai bà có đi
học không. Tôi xem sổ
lớp và trả lời “không”.
Ngày hôm sau vào lớp, tên học tṛ vắng mặt hôm
trước gặp tôi “cà khịa”, “Bà không có quyền bảo mẹ tôi là tôi không có
mặt ở trường? Tôi đă trên 18 tuổi, tôi
đi đâu ở đâu là chuyện của tôi
chứ?” Lúc đó tôi mới
khựng lại, nhận ra rằng đây là trường
học tráng niên, người ta làm ǵ là chuyện riêng
của người ta, không ai có quyền “xía vô” kể
cả cha mẹ. Lần sau,
tôi khôn hơn một chút, có ai gọi vào hỏi về
học sinh trên 18 tuôỉ, tôi trả lời, “Bà cứ để lại
lời nhắn, nếu anh ta có ở đây th́ tôi sẽ
chuyển.” Như vậy, ḿnh không khẳng định là có ở đây hay không mà vẫn phụng sự
người gọi như yêu cầu.
Có những lần, tôi biết chắc tên
học tṛ đó đang dùng thuốc ghiền v́ cứ nh́n
hắn ngố cả giờ mà không giở một trang sách,
mắt th́ đỏ ngầu như người thiếu
ngủ, lại gần th́ ngửi thấy mùi hăng hắc.
Nhưng tôi phải rất thận trọng không buộc
tội khi không có quả tang có thuốc trong người, mà
chỉ có thể viết vào hồ sơ là “I observe his eyes
are glassy..,”chứ không
viết là “He is on drug”, ḿnh có thể bị kiện lại
đến..tam toà!
Tôi thấm thía được cái quyền
tự do và trọng cá nhân người ở xứ
Mỹ. Tôi c̣n nhớ
trước khi dạy đám trẻ em VN năm 75, cô giáo
dạy cùng với tôi đưa tôi đi gặp tất
cả các em nhỏ sẽ vào học, kể từ 6
tuôỉ trở lên, hỏi ư kiến các em, bảo cho biết về chương tŕnh,
hỏi có muốn học không, nghĩ thế nào. Tôi lẽo đẽo theo cô Eileen,
nghĩ thầm trong bụng, “Con nít biết ǵ mà cũng
bầy đặt hỏi ư kiến.” Ở nhà ḿnh con trẻ hỏi ǵ là bị
mắng tơí tấp, không được nói leo, nói ǵ
đến việc hỏi ư kiến. Bây giờ th́ đă quen rồi, tuy vẫn
nghĩ con trẻ ở
đây được nhiều “quyền”quá,
được trọng quá và tất nhiên là được bảo vệ
tối đa chỉ v́ chúng nhỏ hơn ḿnh, không tự lo
được. Đây có
phải là niềm kiêu hănh của một văn minh dân
chủ, một văn hoá mà con người rất kiêu hănh
v́ được “born free”
với tự do cá nhân bất
khả xâm phạm. Tôi không
khỏi nghĩ tới các thầy cô VN (trong đó có cả
tôi) đă có những lúc trừng phạt cả lớp v́
một vài em nói chuyện và tiếc là ḿnh chẳng c̣n
được áp dụng lối phạt “hội
đồng” đó với học tṛ Mỹ! Tôi phải tập không giận
dữ hay to tiếng với học sinh nào trước
mặt cả lớp v́ không v́ lư do ǵ những đứa
kia không làm lỗi mà phải nghe hay nh́n thấy sự đụng
độ. Nếu cần “chỉnh”một học sinh nào,
tôi (phải học) rất nhẹ nhàng, từ tốn, “ngoắc”
hắn ra ngoài hành lang nói nhỏ, rồi hoặc là cảnh
cáo rồi bỏ qua, hoặc là viết referral cho hắn
cầm lên văn pḥng gặp
giáo sư cố vấn. Và
nếu hắn được gửi trả về
lớp, ḿnh lại coi như không xảy ra chuyện ǵ,
phải cho hắn một
“second chance” chứ không được trù
ẻo hắn cả khoá
học. Tôi phải nhận rằng người Á đông
ḿnh nói chung rất nóng nảy, và v́ vậy những sự
đụng độ nhiều khi trông không được
đẹp lắm.
Người xứ văn minh có những lối cư
xử trầm hơn và tất nhiên là có điểm bất
lợi là v́ không “xả”ra ngoài nhiều nên dễ
bị đau bao tử hơn v́ tích tụ ấm ức
trong ḷng! Cũng phải
nhận là có trầm tĩnh, tôi giải quyết
được nhiều điều dễ dàng hơn, có
kết quả hơn là trong lúc nóng nẩy hay căng
thẳng thần kinh. Và
cũng v́ coi trọng con trẻ –cũng là những cá nhân
biết suy nghĩ như ḿnh, tôi thông cảm với các con
tôi hơn nhất là khi thấy chúng đang bị giằng
co giữa 2 nền văn hoá, hấp thụ ở
trường và ở nhà. Tôi
nhận ra rằng các con tôi ở trường tới 7, 8
tiếng đồng hồ và gặp tôi nhiều
lắm là 3 giờ một ngày, và khi ở trường th́
chúng đang được học thế nào là tự do,
dân chủ, quyền cá nhân, v.v. Tôi nh́n các học tṛ Mỹ của tôi, nghĩ đến các con tôi, thấy cách ǵ con
tôi cũng “ngoan” hơn các học tṛ Mỹ, nên tôi trở nên dễ dăi, thông cảm
vơí các con hơn, có lẽ khá hơn h́nh ảnh bà giáo già khó
tính đeo kính trễ xuống sống mũi mà mọi người thường tưởng
tượng!
Những năm dạy trường Mỹ
đă luyện cho tôi quên được cái tôi to
tướng ( big ego) của người làm thầy ở
VN. Hố đó tôi luôn luôn mang ư
tưởng “thầy” là phải biết tất cả và
cảm thấy bối rối hổ thẹn khi học tṛ hỏi cái ǵ mà tôi không trả lời
được. Quan niệm
“thầy”ở xứ này không khác hơn một người
làm công xưởng. Thầy
chỉ là một người đi t́m tài liệu (resource
person) nên ḿnh có thể thơ thới hân hoan mà tuyên bố,
“Tôi không biết. Để
tôi t́m xem và sẽ cho em biết sau.” Nói như vậy, chứ thực tế th́ ḿnh
cũng không đủ tự tin nếu cái ǵ ḿnh cũng
không biết. Vậy nên trong những năm đầu tiên,
tôi phải đem tất cả sách vở các môn về nhà
ôn lại hoặc đọc trước (tôi phải giúp
học sinh về bất cứ môn nào họ cần). Những môn toán th́ không có ǵ khó v́
người Việt vốn giỏi toán, nhưng nói
đến lịch sử văn chương th́ tôi chỉ
biết sơ sơ nếu không muốn nói là mù mờ.
Có lẽ không xứ nào lại áp dụng
luật pháp kỹ càng như nước Mỹ, mà ḿnh th́
không quen nghĩ đến luật pháp, cứ làm bừa
đi theo phản ứng tự nhiên, hoặc không hề
nghĩ đến khía cạnh luật pháp khi hành
xử. Có những lúc học
tṛ tôi trốn học. Giá chúng
nó lẳng lặng mà đi th́ dễ cho tôi hơn. Ḿnh cứ việc báo cáo cho cha mẹ (nếu nó dưới
18 tuổi). Chúng nó tự làm
là trách nhiệm ở chúng nó nếu có chuyện ǵ xẩy ra
trong lúc trốn học).
Đàng này nó lại ra xin phép, “Mrs. Le, can I leave early
today to go to the beach? It’s
beautiful outside.” th́ tôi phải làm sao? Trả lời, “Of
course, not.” hay bằng ḷng cho nó đi? Cách nào th́ ḿnh cũng lănh phần trách nhiệm v́
nó đă cho ḿnh biết. Ḿnh
không cho nó đi nhưng phải canh chừng đừng
để nó trốn đi, lỡ có chuyện ǵ giữa
đường là ḿnh lănh đủ!
Người Mỹ rất sợ làm cho ai
bực ḿnh hay giận dữ và khả năng chịu
đựng rất thấp. Bao nhiêu chuyện bắn
giết ở các nơi đều là kết quả của
những nóng giận âm ỉ tích lũy từ bao giờ. Thành thử ai cũng ngại
bị than phiền. Một
phụ huynh gọi tôi nói là con bà phải làm nhiều
bài quá, hoặc được điểm thấp quá làm cho
nó “feel bad” th́ tôi phải làm sao?
Một nữ sinh khác vào lấy bài về nhà làm v́
đau không đi học được. Ḿnh thông cảm,
cho nó mang sách vở về nhà, và thực ḷng muốn an
ủi vỗ về nó.
Chẳng may nó lại cao lớn hơn bà giáo. Bà giáo chỉ định vỗ
vai hay lưng nó mà lại thành vỗ phía lưng dưới
của nó, và nó về nhà than phiền là bà giáo “touched me
inappropriately”! Bà giáo
nghĩ sao đây? Tôi vừa
buồn vừa giận, lại nhớ tới câu chuyện
anh bạn kể hồi mới sang đi làm phụ giáo. Chắc
là đầu óc c̣n vương vấn đến quê
hương, đi mà đầu óc để đâu đâu,
và cũng c̣n đầy cung cách VN, đi vào pḥng vệ sinh
dành cho học tṛ (pḥng nào chẳng thế, cần ǵ
phải vào pḥng giáo sư) rồi bị học sinh than
phiền là cố t́nh “exposed himself”!
Tất cả những hiểu lầm tai
hại trên đều là do những khác biệt cá nhân,
những khía cạnh văn hoá mà chỉ không may một chút
là chuyện nhỏ thành chuyện lớn. Tôi đi dậy
ở Ventura đúng 25 năm, bây giờ về hưu rồi,
ngoảnh nh́n lại thấy giật ḿnh và mừng là ḿnh
đă không gặp chuyện ǵ quá đáng và oan uổng
chỉ v́ sự khác biệt của ḿnh.
Ngày tháng trôi qua, tôi cũng quen dần và
hội nhập với nền văn hoá mới;
đồng thời v́ tiếp xúc nhiều với tuổi
trẻ Mỹ, tôi hiểu họ hơn, tôi hiểu tôi
hơn, trân quí ǵn giữ di sản văn hoá của tôi và thông cảm với những cái của họ. Đầu óc tôi phóng khoáng hơn
khi đối đầu với các khác biệt. Ngoài những khó khăn phải
vượt qua để tồn tại trong môi trường
Mỹ, tôi cũng có nhiều kỷ niệm với học
tṛ tôi. Nhưng thành thực mà
nói, t́nh cảm đó không sâu đậm như t́nh thầy tṛ
VN. Nó chỉ lướt đi
v́ mọi người đều bận chạy theo
cuộc sống, theo ḍng đời. Một văn hoá coi tự do cá nhân, sự riêng
tư là trọng, lại đầy đủ về
phương diện vật chất, ít ai phụ thuộc vào ai về phương diện kinh tế th́ con
người khó mà đến gần nhau. Ngay cả trong cộng
đồng người Việt chúng ta, có lẽ những
h́nh ảnh các bà nội ngoại lễ mễ đem quà khi
đến thăm các cháu và h́nh
ảnh các cháu chờ bà, tranh nhau cái bánh kẹp bây
giờ chỉ c̣n là kỷ niệm...
Nhưng tôi không quên được những
năm đi dậy trường Mỹ, món quà đầu
tiên tôi nhận được vào một dịp lễ Giáng
sinh là từ một người học tṛ gốc Á châu.
Thu Lê 11/4/03