Không phải chỉ có một mình chồng tôi nhận thấy rằng hiện Việt Nam ta có nhiều quy phạm luật và quy phạm dưới luật về quyền con người và quyền công dân
chưa hoàn toàn phù hợp với quy phạm của Hiến pháp. Quan điểm này được nhiều nhà nghiên cứu chia xẻ, thí dụ như PGS TS Nguyễn Văn Động viết trong sách “Quyền Con Người, Quyền Công Dân Trong Hiến Pháp Việt Nam” (nxb Khoa học Xã hội, 8.2005). Cũng như nhiều người khác, chồng tôi cũng nêu lên những ý kiến về việc phải có một Toà án Hiến pháp để phán xét về tính hợp hiến của các quy phạm luật và dưới luật. Một vấn đề lớn khác đang được xã hội thảo luận là việc nội luật hoá trong Hiến pháp và luật pháp các điều ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam ký kết hoặc gia nhập mà, theo PGS TS Nguyễn Văn Động, việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các điều ước là nghĩa vụ của nhà nước và nhân dân (sđd, tr. 231). Do đó những phát biểu và bài viết của chồng tôi liên quan đến các vấn đề trên cần được xem là những đóng góp xây dựng để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và để Việt Nam hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng quốc tế.
Cũng cần nhấn mạnh rằng chồng tôi không phải là người duy nhất thực thi các quyền công dân hiến định. Từ trước khi chồng tôi bị giam giữ cho đến nay, đã có rất nhiều trí thức, nhà nghiên cứu, luật sư, chuyên viên, cán bộ cao cấp, đại biểu quốc hội và những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước khác – dù còn tại chức hay đã về hưu – đã thực hiện quyền tự do ngôn luận hiến định này trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trong cũng như ở ngoài nước. Không khác gì chồng tôi, họ cũng tham gia đóng góp nhũng ý kiến sôi nổi về các vấn đề như Điều 4 Hiến Pháp, quan niệm đảng lãnh đạo, đa nguyên, đa đảng, dân chủ, nhân quyền, hoà giải với cộng đồng người Việt hải ngoại. Thông thường, Nhà nước cần khuyến khích một nền văn hoá trao đổi quan điểm một cách ôn hoà như thế về những vấn đề của đất nước.
3) Chồng tôi không vi phạm điều 88 của Bộ luật hình sự a) Bản án dựa trên nhiều kết quả điều tra thiếu chính xác để kết luận hàm hồ Bản án hình sự sơ thẩm số 153/2007/HSST đã dựa trên thiên kiến buộc tội và những điều tra cẩu thả của cơ quan công an nên có nhiều kết luận hàm hồ đến mức phi lý.
Ngay trong phần mở đầu, bản án đã cố tình tạo ra ấn tượng phạm tội bằng một sự kiện bắt quả tang:
“Sáng ngày 03.02.2007, tại văn phòng luật sư Thiên Ân - số 10 Đoàn Trần Nghiệp, Cơ quan an ninh điều tra Công an thành phố Hà Nội và Bộ Công an phát hiện Lê Thị Công Nhân đang tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và xuyên tạc các chủ trương chính sách của nhà nước ta về dân chủ, nhân quyền cho 03 sinh viên Khoa Báo chí Trường Cao đẳng phát thanh truyền hình I Hà Nam” (BAST, tr. 2). Đây là một xác định ngây ngô. Sự thật là vào ngày 3.2.2007, luật sư Lê Thị Công Nhân chỉ vừa kịp chào hỏi và phát bài viết “Nhân phẩm, nền tảng của nhân quyền” cho 3 sinh viên Hà Nam thì công an đã ập vào. Theo lời khai thống nhất của Lê Thị Công Nhân, Phạm Văn Trội và Bạch Ngọc Dương, mọi việc diễn ra trong khoảng thời gian chưa đầy 5 (năm) phút thì công an đã đến giải tán vào lúc 10g10’. Ngay cả Giáp Văn Hiếu là người được Viện Kiểm sát mời ra làm nhân chứng cũng khai trước toà rằng ông “chưa kịp đọc tài liệu thì công an đã vào bắt”. Năm (5) phút là thời gian rất ngắn ngủi và chắc chắn không thể đủ để cho Lê Thị Công Nhân làm công việc to tát kinh khủng là “
tuyên truyền chống Nhà nước … và xuyên tạc các chủ trương chính sách của nhà nước ta về dân chủ, nhân quyền”. Cũng cần nói thêm rằng bài “Nhân phẩm, nền tảng của nhân quyền” là một bài nghiên cứu học thuật của tiến sĩ triết học Đỗ Mạnh Tri ở Pháp. Tính học thuật thể hiện ngay tại đầu bài khi tác giả Đỗ Mạnh Tri ghi rõ “
cách trình bày dùng phương pháp phân tách, lồng vào phương pháp lịch sử. Nói cách khác: dựa vào một vài mốc lịch sử để tiếp cận ý niệm nhân phẩm và dẫn chứng tính cách nền tảng của ý niệm này trong tiến trình nhận thức và đề cao nhân quyền”. Về nội dung, bài này đã dùng một số ý niệm triết học và thần học và không có một ý nào hoặc một chữ nào đả động đến Việt Nam. Khi toà chấp nhận một kết luận hoàn toàn không có cơ sở thực tế, không hợp lý và sai sự thật như vậy, tôi cho rằng toà đã có sẵn thành kiến với các bị cáo.
Toà sơ thẩm đã tiếp nhận một cách thiếu suy xét nhiều ý kiến khác của cơ quan điều tra. Cũng giống như cáo trạng, bản án đã gộp chung nhiều người, nhiều việc không liên quan vào với nhau để tạo cảm tưởng về sự nghiêm trọng và rằng chồng tôi là người cầm đầu xúi giục. Bản án viết: “
cơ quan an ninh điều tra còn xác định Phạm Văn Trội và 4 nhân viên văn phòng luật sư Thiên Ân là: Phạm Sỹ Nguyên, Nguyễn Xuân Đệ, Trần Thanh và Nguyễn Thị Hương Lan do bị Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân tuyên truyền lôi kéo nên đã tham gia vào các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc chống nhà nước“ (BAST, tr. 3). Trước hết, những nhân sự trên không làm việc trên cùng lãnh vực với nhau. Ông Phạm Văn Trội là thành viên của Uỷ ban Nhân quyền Việt Nam. Ông Nguyễn Xuân Đệ là nhân viên lái xe và bà Trần Thanh là nhân viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Luật. Chỉ riêng bà Nguyễn Thị Hương Lan là kế toán viên và ông Phạm Sỹ Nguyên là nhân viên của văn phòng luật sư Thiên Ân. Năm người này có những công việc làm hàng ngày khác nhau, có người chỉ làm những việc rất chuyên môn như lái xe hay kế toán.
Tất cả 4 nhân viên thuộc 2 văn phòng khác nhau của chồng tôi đã khai rằng họ không có hoạt động tuyên truyền xuyên tạc chống Nhà nước và do đó cũng không bị ai lôi kéo cả.
Ông Trội là người hoạt động độc lập và cũng khai không bị chồng tôi lôi kéo. Việc thẩm phán chủ toạ Nguyễn Hữu Chính không mời ông Phạm Văn Trội và các nhân viên của chồng tôi tham gia phần xét hỏi nhân chứng tại phiên toà ngày 11.05.2007 đã khiến cho sự thật của vụ án bị bóp méo theo hướng bất lợi cho chồng tôi.
b) Điều 88 BLHS có nhiều khái niệm quá mơ hồ và bao quát Từ ngày BLHS 1999 được ban hành đến nay, Nhà nước đã chưa có văn bản pháp luật nào để hướng dẫn về nội hàm của các hành vi được ghi trong Chương “Xâm phạm An ninh Quốc gia” của bộ luật này, ở đây cụ thể là các hành vi theo Đ.88 BLHS. Thế nào là chống? Chống Nhà nước, chống chính quyền là gì? Hành vi như thế nào và ở mức độ nào thì bị gọi là chống Nhà nước, chống chính quyền? Tuyên truyền là gì, hoạt động ở mức độ nào thì bị xem là tuyên truyền? Phê bình chính sách của Đảng hoặc của Nhà nước, phê bình hoặc tố cáo các hành vi vi hiến, vi luật của cán bộ Đảng, cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, nêu lên những sự thật lịch sử có bị xem là hành vi xuyên tạc, phỉ báng chính quyền không? Như thế nào là tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý? Tuyên truyền như thế nào thì bị xem là gây hoang mang trong nhân dân? Hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu là gì và ở mức độ nào thì bị xem là phạm luật? Những khái niệm này đến nay vẫn còn rất mơ hồ và bao quát khiến ai muốn hiểu thế nào cũng được. Nói chung các luật gia, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam vẫn còn xem những vấn đề vừa kể thuộc vào loại chính trị “nhạy cảm” nên đã tránh né các vấn đề này và không có công trình nghiên cứu làm sáng tỏ các khái niệm trên. Họ vẫn còn mang mặc cảm sợ sệt mà quên rằng Việt Nam đang ở trong hoàn cảnh mới, đang hội nhập quốc tế, đang xây dựng Nhà nước pháp quyền và đang cần tìm sự hoà hợp giữa những điều khoản trong Chương Xâm phạm An ninh Quốc gia của BLHS, những quyền công dân trong Hiến pháp và nhân quyền trong điều ước quốc tế. Vì luật pháp không rõ ràng, vì không có cách hiểu chính thống nên trong xã hội đã có nhiều cách hiểu khác nhau. Công dân nào bạo dạn thì cho rằng mình có quyền làm những gì mà pháp luật không cấm, công dân nào yếu đuối thì bị hoang mang không dám sử dụng quyền công dân hiến định của mình một cách đúng mức. Còn cơ quan thực thi pháp luật lại có cách hiểu riêng, áp dụng co giãn tuỳ tiện, khi bắt giam người này khi làm ngơ người kia, lúc đưa ra truy tố lúc lại áp dụng biện pháp hành chánh, khiến cho việc áp dụng luật không được nghiêm minh, làm cho dân chúng hoang mang vì không biết hành động thế nào cho đúng ý Nhà nước. Theo tôi, Nhà nước pháp quyền Việt Nam không thể để cho một điều luật quan trọng như Đ.88 BLHS bị diễn giải tuỳ tiện như thế được. Do đó các cơ quan nhà nước có chức năng lập pháp phải có nhiệm vụ mau chóng làm rõ các khái niệm của Đ.88 BLHS. Trong khi chờ đợi, Nhà nước có thể tạm hoãn áp dụng Điều 88 này dựa trên nguyên tắc “
Không có tội khi không có luật” (Đ.2 BLHS). Trong phiên xử sơ thẩm, tuy kiểm sát viên có thú nhận sự thiếu sót của BLHS, nhưng lại đưa ra những diễn giải riêng để kết tội chồng tôi. Do đó tôi xin phản bác như sau.
c
) Chồng tôi không chống Hiến pháp và không chống Nhà nước CHXHCNVNTrong phần trình bày dưới đây tôi sẽ chủ yếu sử dụng những định nghĩa của Tự điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam (BKTT). Đây là bộ tự điển được xem là chính thống ở Việt Nam vì nó được soạn thảo bởi một cơ quan chính phủ. Tự điển này đã định nghĩa khái niệm Nhà nước một cách rất trừu tượng:
“Nhà nước là tổ chức chính trị của xã hội, công cụ cơ bản của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp” (BKTT Tập 3, 2003). Trong khi đó, theo Đ.2 HP 1992 thì “
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.(…) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Hiến pháp 1992 qui định rõ các cơ quan nhà nước là Quốc hội (Đ.83, HP), Chủ tịch nước (Đ.101, HP), Chính phủ (Đ.109, HP), Hội đồng nhân dân (Đ.119, HP), Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (Đ.126, HP). Cần xác định rằng, theo HP 1992, Đảng Cộng sản Việt Nam tuy là
“lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Đ.4, HP) nhưng không được xem là cơ quan nhà nước. Do đó nếu có một công dân Việt Nam nào chống đảng Cộng sản Việt Nam thì sự chống đối này cũng không thể bị đem đồng hoá với việc chống Nhà nước.
Chống nhà nước được hiểu là chống một hay nhiều cơ quan nhà nước hiến định kể trên. “Chống” là làm trái lại, ngược lại. Theo nghĩa chính trị, chống là “Chống đối”, nghĩa là chống lại với thái độ đối địch. Vấn đề đầu tiên cần đặt ra ở đây là nếu một công dân Việt Nam có quan điểm (trong đầu) trái với quan điểm của Nhà nước Việt Nam thì công dân đó có phạm tội hình sự không? Các vị lãnh đạo nhà nước Việt Nam trả lời là không. Bằng chứng là các vị luôn luôn khẳng định rằng chính quyền Việt Nam không giam giữ ai vì lý do bất đồng chính kiến hoặc Việt Nam không có tù nhân chính trị mà Việt Nam chỉ giam giữ những người vi phạm luật pháp. Vậy câu hỏi tiếp theo là khi một công dân đã có quan điểm “chống đối” thì hành vi nào của công dân này bị xem là phạm tội và hành vi nào là hành vi được bảo vệ bởi quyền hiến định về tự do ngôn luận (và như thế không phạm tội)? Vì Đ.88 BLHS xem ý thức chống Nhà nước là yếu tố chủ quan của tội phạm cho nên điều luật này rất dễ bị lạm dụng khi được áp dụng trong thực tế. Luật quốc tế giải quyết vấn đề này một cách đơn giản hơn khi phân biệt rõ ràng rằng các hành vi chống đối bằng bạo lực là hành vi phạm tội hình sự và hành vi bày tỏ ý kiến chống đối một cách ôn hoà là không phạm tội hình sự. Để tôn trọng việc gia nhập CƯQT QDSCT,
Nhà nước Việt Nam phải xem những hành động đấu tranh, phê bình, chỉnh sửa một cách ôn hoà, bằng lời nói hay bằng chữ viết của công dân đối với các cơ quan hoặc nhân viên nhà nước là những hành vi hợp pháp vì được bảo vệ bởi quyền công dân trong Hiến pháp (Đ.50, Đ.69 HP) và quyền tự do ngôn luận trong CƯQT QDSCT. Quyền này cũng đang được bảo vệ và khuyến khích ở mọi quốc gia khác trên thế giới. Chồng tôi đã nhiều lần khẳng định - cả trong phiên xử sơ thẩm - rằng chồng tôi không chống Nhà nước CHXHCNVN mà chỉ thực hiện các quyền công dân hiến định. Nhưng toà sơ thẩm vẫn cứ dựa vào những suy đoán hời hợt để kết luận rằng chồng tôi chống nhà nước.
Toà sơ thẩm đã đưa ra 3 lý do để kết tội chồng tôi chống Nhà nước: vì chồng tôi chống Hiến pháp, vì có liên lạc với những người chống Nhà nước và vì là cảm tình viên hoặc thành viên của các tổ chức chống nhà nước. Cả 3 lý do này đều không vững. Nếu xét kỹ thì lập luận của toà sơ thẩm nhằm chứng minh rằng chồng tôi chống Hiến pháp 1992 đã dựa trên một tiền đề sai. Tôi khẳng định rằng chồng tôi không chống mà còn thường có hành vi bảo vệ tinh thần của Hiến pháp 1992, đặc biệt tinh thần tôn trọng quyền công dân trong hiến pháp này. Trong bài viết “Quyền Tự do Thành lập đảng ở Việt Nam” được toà xem là một chứng cớ tiêu biểu, chồng tôi nhận xét rất chính xác rằng Hiến pháp 1992 không có điều khoản nào ngăn cấm việc thành lập các chính đảng khác bên cạnh đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó - dưới cái nhìn của một luật gia - chồng tôi cho rằng công dân Việt Nam có quyền thành lập chính đảng. Chồng tôi đã áp dụng nghiêm túc một nguyên tắc chính yếu của Nhà nước pháp quyền, đó là nguyên tắc “người dân có quyền làm mọi điều mà pháp luật không cấm” (BKTT, sđd). Theo BKTT, “Nguyên tắc này thể hiện nội dung dân chủ của nhà nước, phát huy mọi sáng tạo của các chủ thể phục vụ lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của công dân”. Trên thực tế, Hiến pháp 1992 không còn qui định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội nữa. Đây là một thay đổi lớn vì
Hiến pháp 1980 còn qui định rằng Đảng cộng sản Việt Nam là
“lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội” (Điều 4, HP1980). Vào thời điểm năm 1980, trên chính trường Việt Nam, ngoài đảng Cộng sản còn có thêm hai đảng Dân chủ và đảng Xã hội, và hai đảng này còn tồn tại đến năm 1988. Như vậy trong 8 năm thực thi Hiến pháp 1980 với một qui định rõ ràng về sự lãnh đạo duy nhất của đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam cũng không xem đảng Dân chủ và đảng Xã hội là những đảng bất hợp pháp. Xin nhấn mạnh rằng hai chính đảng này được thành lập vào các năm 1944, 1946 và đã tự ý giải thể vào năm 1988 chứ không phải bị chính quyền giải tán hay cấm hoạt động. Ngày nay, khi Điều 4 Hiến pháp 1992 đã bỏ đi chữ “duy nhất” trong cụm từ “lãnh đạo duy nhất” của Điều 4 Hiến pháp 1980, thì mọi suy diễn về sự duy nhất của đảng Cộng sản Việt Nam trên chính trường Việt Nam và từ đó cho rằng hoạt động của các đảng phái khác là bất hợp pháp đều không có cơ sở lý luận và thực tế vững chắc. Vì đã dùng một tiền đề sai về tính chất “duy nhất” (“Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo Cách mạng Việt Nam”) cho nên toà sơ thẩm đã liên tiếp kết luận sai khi cho rằng “mọi đảng phái, hoạt động (chép theo đúng nguyên bản, tôi ghi chú) đều là vi phạm, đều là bất hợp pháp“ và “mọi hành vi phê phán Đảng Cộng sản … là vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp” (BAST, tr. 6). Bản án đã dựa trên lập luận sai này nên đã kết án chồng tôi một cách phi lý về tội chống Nhà nước.