Chè Huế
Chỉ cần 1000-1500 đồng bạn có thể ghé vào bất cứ quán chè nào trên mỗi con đường, ngõ hẻm của Huế. Tùy theo khẩu vị riêng của từng người, quán chè sẽ phục vụ những loại chè ưa thích. Bạn có thể thưởng thức cái ngọt của nước đường, thơm bùi của đậu, béo ngậy của nước cốt dừa...
Khó mà thống kê ở Huế hiện nay có bao nhiêu quán chè, dường như chè là một món ăn không thể thiếu của người dân Huế. Nó không đơn thuần là một món ăn nữa mà từ lâu, đã trở thành nét văn hoá Huế, văn hóa ẩm thực mang sắc màu xứ Huế...
Từ cách nấu, cách ăn...
Từ thời ông cha ta ngày xưa, người ta đã biết chế biến nhiều loại chè. Nào là chè đậu xanh, đậu ván, bông cau, hạt sen, hạt nhân..., nếu tính đầy đủ phải đến gần 20 loại, mỗi loại đều có cách nấu và hương vị riêng biệt. Ngay cả khi nguyên liệu cùng một loại đậu như đậu xanh, đậu đỏ hoặc đậu đen thì khi nấu vẫn có sự khác nhau nhất định. Nhưng có lẽ với người dân Huế ưa chuộng vẫn là đậu xanh, từ nó có thể tạo ra 2-3 loại chè: xanh nước, xanh đánh...
Chè đậu ngự, đậu ván, đậu quyên cũng là những loại có xuất xứ lâu đời ở Huế. Ví như muốn nấu một món chè đậu ván, phải đánh một chậu nước lạnh với một chén tro lò, lấy nước tro luộc đậu ván cho đến khi chín bóc được vỏ, trút sang cái rá đem chà cho sạch mày đậu rồi để cho ráo nước. Xé là dừa lót vào ngăn xửng, đổ đậu lên hấp, đậu chín mềm và nở thì lấy ra nấu cùng với nước đường, sên cho đường thấm vào đậu sẽ nhắc xuống. Chè bột lọc với những viên tròn nho nhỏ, đôi lát gừng, sóng sánh trong chén nước đường trong suốt nhìn rất bắt mắt. Bột lọc với đậu phụng rang là cách nấu có từ ngày trước, qua thời gian biến đổi bây giờ người ta dùng dừa để bọc. Và khó có thể nói bọc dừa hay đậu phụng rang cái nào ngon hơn, mà tùy theo sở thích người ta nấu theo khẩu vị của mình. Còn một dạng chè nữa lấy nguyên liệu từ khoai tía, khoai mài, môn sáp vàng, tuy để nấu thành món chè hấp dẫn tốn không ít công sức nhưng màu sắc sinh động và vị thơm bùi bùi rất riêng của nó, khiến người ăn luôn thấy thú vị.
Nói đến chè Huế không thể không nói đến chè bắp, chè hạt sen bởi đây là món chè đặc trưng của người Huế, nó có địa danh, lịch sử gắn liền. Chè bắp thì phải lấy bắp non hay còn gọi là bắp sữa ở Cồn Hến mới ngon, khi nấu đem nạo bắp cho tơi nhỏ kết hợp với bột lọc và đường trắng cho đến khi đặc lại, chè sẽ thơm lừng mùi bắp rất dân dã. Chè hạt sen muốn ngon phải dùng hạt sen ở Tịnh Tâm, sen ở đây vừa mẩy vừa thơm, từ lâu đã nổi tiếng là sen Ngự thường dành cho các bậc vua chúa và quan lại ăn. Chính yếu tố lịch sử đó đã tạo nên nét tâm lý cho người dân khi ăn chè hạt sen.
.... Đến ý nghĩa
Theo nhà nghiên cứu Huế - Hồ Tấn Phan thì ngày xưa, ông cha ta nấu chè theo kiểu chè tinh, nghĩa là chè loại nào ra loại đó, để tạo từng hương vị riêng biệt của mỗi loại. Ngay cả phụ gia nấu kết hợp cũng được chọn hết sức tinh tế, mang đặc tính thiên nhiên như lá dứa, lá dừa, gừng....tạo ra một hương vị nội thân của nó. Khi ăn thì dùng muỗng cà phê ăn từng thìa nhỏ để vị ngọt của chè thấm từ từ vào lưỡi, cảm nhận mùi thơm từ nước và cái chè. Người ta ăn chè như là một cách hưởng thụ văn hóa.
Ngày nay mặc dù chè Huế đã ít nhiều nhạt phai hương sắc của chè Huế xưa và pha tạp giống như các địa phương khác. Nhưng trong đời sống của người dân, nét Huế trong món chè vẫn còn được lưu giữ. Bởi với Huế, chè là món ăn mang ý nghĩa tinh thần cao, có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống. Chúng ta thường thấy vào những ngày lễ tết, cúng giỗ, có gia đình nào không nấu món chè thắp hương cho ông bà?
Chè là một yếu tố không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực vốn nổi tiếng ở Huế. Vì lẽ đó, chúng ta cần tạo nên một sắc thái riêng, khác biệt so với các địa phương khác như một cách để thu hút khách du lịch đến với đất Cố đô. Đơn giản bởi chẳng ai đến Huế để thưởng thức món chè mà ở Sài Gòn hay Hà Nội đều có.
Giữ gìn sắc hương chè Huế chính là đã tạo ra một thế mạnh về văn hóa, về du lịch.
Lê Thuỷ