Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Chợ Chiều  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 19 20 21 22 23 ... 93
Send Topic In ra
Chợ Chiều (Read 99995 times)
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #300 - 23. Feb 2008 , 10:48
 
...

Ốc Bươu Nhồi Thịt


Vật Liệu

- 30 con ốc bươu  - nước vo gạo.
- 50g thịt nạc dăm.
- 50g giò sống.
- 2 tai nấm mèo.
- 20g lá gừng.
- 2 muỗng cà phê sả băm.
- 1 muỗng cà phê gừng băm.
- Gia vị: chanh, tiêu hột, muối, tỏi.

Cách Thức


Chuẩn bị:

- Ốc bươu : Mua về rửa sạch, ngâm nước vo gạo 15 phút, xả sạch, luộc sơ, cạy nắp lấy thịt ra, rửa sạch lại bằm nhuyễn.
- Thịt nạc dăm: Bằm nhuyễn rồi trộn chung với giò sống, thịt ốc, nấm mèo xắt ngắn 0,3cm nêm tiêu, muối, đường, bột ngọt, sả băm, gừng băm, tỏi p hi, tiêu hột.
- Lá gừng: Rửa sạch để ráo cắt ngắn 6 cm.
- Vỏ ốc: Ngâm nước phèn rửa sạch để ráo hoặc rửa qua nước sôi.

Chế biến:

- Đặt lá gừng vào trong vỏ ốc cho thịt vào cho đầy, đậy lá gừng lại đem hấp lại 30 phút.
Dùng nóng với muối tiêu chanh hoặc nước mắm gừng.


Back to top
« Last Edit: 18. Nov 2008 , 15:10 by khieulong »  
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #301 - 07. Mar 2008 , 16:09
 
ĐÀN ÔNG YÊU BẰNG GÌ?



YÊU BẰNG MŨI?

Trong số báo “Ngày Nay Houston” của người Trương Trọng Trác mới đây, tác giả Nguyễn Ngọc Bảo có bài bàn về “yêu” mang tựa đề bên trên. Bài hay. Tác giả ra công vinh danh cái hơi hướm nơi người đàn bà và dõng dạc khẳng định rằng: “Chúng tôi yêu các bà bằng mũi!!!”

Ông Bảo viện dẫn từ những câu Quan Họ như: “Cô kia có áo mới may, xin cho tôi mượn vài ngày lấy hơi.” (Xin có tí ý kiến: áo mới may thì không thể có hơi của nàng được, nếu có ắt là của... ông thợ may thôi. Cẩn thận kẻo bé cái nhầm thì nguy!) Miền Nam cũng thế: “Chim quyên ăn trái nhãn lồng; Lia thia quen chậu vợ chồng quen hơi.” Tới Tự Đức thì: “Xếp tàn y lại để cầm hơi.” Đến Thúc Sinh cứ tưởng Kiều chết, bao đêm trăn trở nhớ nhung để: “Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa.” Và gần hơn cả là câu thơ bất hủ của Quang Dũng: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới; Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.”Nhớ cái hương gái Hà Thành (ngày xưa thôi!) mà khi ngóng qua biên giới mắt chàng cứ trợn dọc như người lên kinh phong thế kia thì kể là ghê thật, cái hơi hướm của người đàn bà quả là đáng nể thật!

Người viết đọc xong rất là tán đồng với tác giả, kể cả việc ông khéo léo khuyên một số chị em “... rằng mỗi phụ nữ có một hơi hướm tự nhiên, nhưng mức độ quyến rũ của những thứ hơi này lắm khi khác nhau một cách khá phũ phàng. Ấy thế nhưng các chị đừng lo, ngành công kỹ nghệ mỹ phẩm đã bổ túc những khuyết điểm Tạo hoá lỡ mắc phải khi tạo nên con người các chị. Các chị còn chần chừ gì nữa? Hãy ghé shopping nhanh nhanh lên...”

Tán đồng là vì trong nghề viết của chúng tôi, chúng tôi cũng đã lắm phen... hít hà bày tỏ những điều tương tự. Cứ thử tưởng tượng mùa đông ở đây lạnh lùng là thế, những ngày nghỉ ngồi nhìn qua cửa sổ, nghe gió rét vi vu thổi trên những cành Lê cành Đào trơ xương, nhìn bầu trời ảm đạm và vầng thái dương thì như một con mắt mù lòa, còn ảo giác nào đẹp hơn khi lời cầu nguyện củamột nhạc sĩ: “... Ôi có phép lạ nào, cho tự nhiên trời, mùa đông rực sáng, về đây tà áo còn thơm mùi nắng...” trở thành sự thật. Trời ơi, một người đẹp Gia Long của một ngày xưa nào đó chẳng hạn, hiện đến với mình mà từ tóc tới chân đều thơm một mùi nắng Sài Gòn...

Nhưng việc tán đồng vụ cái mũi vẫn có một giới hạn, và chắc quý bạn đọc cũng đồng ý với người viết như thế.

Cứ thử tưởng tượng một người đẹp... thơm ơi là thơm, được mai mối cho một người đàn ông tuyệt nhiên không bị bệnh nặng tai, và câu đầu tiên nàng thủ thỉ vào tai chàng sẽ như thế này: “Reâ xu ma... tìm ra cái quán chỗ anh hẹn này thật naø rêm rả hết cả tứ chi, cứ như bị quân rữ nó rằn ấy thôi!” Giọng oanh như thế có mà không nhảy chàng vẫn cứ tưng lên khỏi mặt ghế chư chơi!

Người viết, vì đó, lại hơi tin rằng đa phần cánh đàn ông nếu được tuyên bố, sẽ nói: “Không, chúng tôi yêu các bà bằng tai cơ!”

YÊU BẰNG TAI?

Thưa vâng, chẳng có lớp nhạc vỡ lòng nào trên thế giới từ cổ chí kim mà các môn sinh lại không từng nghe giảng câu châm ngôn này: “Có Âm Nhạc Trước Tất Cả Mọi Sự!” Thủa hồng hoang đã có gió thổi trên cây, nước chảy trong khe... Rồi bên cái khe nào đó có cây táo mọc trong vườn địa đàng. Cứ thử hỏi lúc bị con rắn rù quến, bà E-và nhà ta mà cọc cằn như nhà mụ Tú Bà thì làm sao xúi nổi ông A-dong dám muốn to ngang bằng Chúa đến nỗi liều nuốt quả táo để mắc kẹt nơi họng? Ôi tiếng nói ấy phải bùi tai lắm, phải ngọt như mật và thấm thía như đường phèn mới tạo ra được nông nỗi... ở truồng cả đám và bị đuổi khỏi vườn địa đàng.

Vừa nhắc đến Tú Bà thì người viết làm sao tránh khỏi liên tưởng đến Kiều, đến anh chàng Kim Trọng! Lúc sơ ngộ, Kim Trọng nào có sử dụng chi đến cái mũi. Rõ ràng là chàng đã sử dụng cái tai. Để thử xem giọng nàng tốt xấu ra sao, chàng bèn “Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.” Thơ Trọng hay đến nỗi vừa trao cho Kiều xem, nàng đã phải buột miệng khen rằng: “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.” Ơ hay, bộ người ta huỗn lắm sao mà phóng thơ ra để chỉ nhận được một lời khen công thức! Kiều vốn thông minh, lại “pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm” thì nhất định là nàng đã lấy giọng ngâm ngay bài này. Vâng, người viết nói không sợ ngoa ngôn, có số bách phân rất cao là Kim Trọng đã đi vào mê lộ của Kiều bằng ngã này, ngã lỗ tai.

Francis Lais đã mở đầu tình ca nổi tiếng của ông, “Love Story,” bằng câu “With the first hello...” có lẽ vì ông cũng là một người... yêu bằng lỗ tai. Thử tưởng tượng chữ “hello” ngắn ngủi ấy được người đẹp nói ra mà không tạo nổi một chấn động âm thanh lớn trong lòng nhạc sĩ, biết đâu ông đã không tắt ngấm ngay ở trường canh thứ 2 và trần gian đã không có được bài hát hay như vậy. Vâng, chúng tôi yêu quí nương vì cái giọng nói sang, êm, lôi cuốn, phát âm chỉnh và có sức mạnh đến nỗi khi quí nương ngâm thơ thi sĩ phải thức đêm đến bơ phờ mà làm thêm thơ, khi hát nhạc sĩ phải xin nghỉ sở ở nhà mà sáng tác thêm nhạc, và khi đọc truyện thì nhà văn chỉ có nước thác vì lỡ bỏ bút từ lâu, và việc viết trở lại không bao giờ là một việc dễ dàng. Nói tóm lại, đám đàn ông phần lớn yêu người đàn bà vì cái giọng trước tiên, nhất là giọng ấy, nói một cách thậm xưng, có sức lôi cuốn làm cho “kiến đang dưới lỗ phải bò ngay lên.”

Giong ấy không thể là “giọng chuông vàng thủ đô.” Người đàn ông yêu người đàn bà bằng cái tai mà giọng nàng lại dội như cái chuông thì bố ai mà chịu thấu. Người viết không hiểu nổi hồi xưa ai xúi dại các bà Kim Chung Kim Chưởng để đi lấy cái câu “Tiếng chuông vàng thủ đô” mà quảng cáo cho đoàn hát của họ. Ngày ở Sài Gòn thời tiền 75 cái băng đánh chén thường xuyên của người viết gồm Nguyễn Vương, Anh Việt Thu, và anh Hưởng (giám đốc đoàn Kim Chung). Đã có lần người viết hỏi anh câu này anh đã bí rị. Nhảm thật. Hỏi thử đời này mấy ai dám đem lòng yêu một người đàn bà có giọng nói vang như tiếng chuông. Đinh tai nhức óc lắm nếu nói về sự chấn động, còn nói về tinh thần thì tiếng chuông chùa chỉ làm người ta nghĩ đến chuyện... diệt dục, và tiếng chuông thánh đường chỉ khiến người ta cố làm sao để nếu không trở thành “em hiền như ma soeur” được, thì ít ra cũng phải hiền như một... mon frère. Người viết lần đầu tiên được người lớn dẫn đi coi tuồng “Lan và Điệp” ở Hà Nội năm 1953. Khi cảnh Lan cắt đứt dây chuông đoạn tình với Điệp, xin thú thật chú lỏi tôi thời ấy đã... hực lên mà khóc. Sau vào Nam, khôn lớn dần, có lúc nghĩ lại và tự hỏi tại sao hồi ấy mình khóc. Câu tự trả lời là: Thương anh Điệp dại khờ quá. Gõ cửa không gõ, cứ giật chuông chùa thì cái dục (nếu còn sót lại) ở Lan chắc chắn đã bị turned off và nàng cắt đứt luôn dây chuông cho đỡ bực mình là phải.

Hồi còn sống dưới miền Nam California người viết từng lâm những cơn hãi hùng. Ở dưới đó có một đài trong vùng mà cô em xướng ngôn có giọng nói không ai đoán nổi cô vốn sinh đẻ ở miền nào của đất nước. Chỉ biết mỗi điều ông chủ đài và cô xướng ngôn đều có vẻ hơi coi thường thính giả. Vâng, quý vị đã bao giờ vượt biên bằng ngả Bạc Liêu chưa? Cuối năm 80 từ tỉnh lỵ Bạc Liêu đi ra quận duyên hải Vĩnh Châu chỉ có một con lộ duy nhất trải đá, không phải đá vụn, đá sỏi hay đá cuội nhỏ đâu, nó là loại đá núi, tảng nào tảng nấy to như cái ấm tích nước. Mỗi ngày từ Bạc Liêu chạy ra Vĩnh Châu chỉ có một chuyến xe chở hành khách duy nhất (bằng một chiếc GMC ngày cũ), thế mà cánh vượt biên dám liều mạng đánh đường này. Thật là kinh khủng. Đoạn đường đã nhồi họ như những cầu thủ bóng rổ nhồi quả bóng. Xuống tới Vĩnh Châu già trẻ đều như gãy hết xương sống.

Giờ quý vị hãy tưởng tượng phải nghe một giọng phụ nữ đọc một đoạn thơ sau đây bằng cái giọng không hiểu là nam, bắc, hay trung, và tất cả mọi dấu hỏi đều được thay bằng dấu ngã:

Anh hõi rằng em mấy tuỗi rồi,
Em rằng còn trẽ lắm anh ơi;
Chồng em thì chữa, vâng em chữa,
Nhưng đám con em đã bẫy rồi...

Em ỡ nơi này tưỡng đã lâu,
Anh nào đễ ý đến em đâu.
Người chi giờ hõi vô duyên nhĩ!
Mập đấy, còn đâu được bễ bầu...


Đại khái thế. Nghe một giọng oanh vàng gồ ghề khấp khểnh đến như vậy mà làm truyền thông thì thật là cỡi xe GMC trên đoạn đường đá tảng Bạc Liêu—Vĩnh Châu e đau lưng cũng đến thế là cùng.

Nhưng giọng sang, êm, phát âm chỉnh, lôi cuốn... coi vậy mà vẫn có thể chưa đủ. Chữ nghĩa còn phải giàu và phải tao nhã nữa mới được. Cứ thử tưởng tượng cô em đi chơi lần đầu với chàng, mua sắm nhiều, rồi khi trở ra xe, thấy chàng loại “vai năm tấc rộng lưng mười thước cao,” người đẹp chìa cái giỏ đựng đầy trái cây, nói như rót mật vào tai chàng: “Anh ơi, anh đô con phát khiếp thế kia, anh cầm giùm em cái đồ này được không” là muốn hỏng kiểu đến nơi rồi. Ấy là chưa kể sau đó cả hai kéo nhau vào tiệm ăn, thấy chàng cứ ngồi thừ người ra mà nhìn mình, nàng gắp bỏ vào bát chàng thức ăn, rồi dịu dàng bảo: “Anh ăn cái cục thịt này đi, nó hầm với cái quỷ sứ gì mà ngon tàn nhẫn!”

KẾT LẠI

Đến đây đọc lại từ đầu người viết có hơi giật mình và tự thấy không nên lan man thêm, vì cứ lan man kiểu này sợ rồi cánh viết lách không lâu nữa đều sẽ trở thành những bác sĩ tai mũi họng hết. Vả lại, càng nghĩ, càng thấy cánh đàn ông yêu đàn bà còn nhiều trường phái lắm chứ chẳng riêng gì trường phái tai mũi họng. Xem, nhà thơ Đinh Hùng nếu còn tại thế mà đọc bài này có thể ông cũng cao hứng viết ngay một bài “Tôi Yêu Đàn Bà Bằng Tay” vì thơ ông có câu “Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc” (Tóc thì để vuốt mà lẽ tất nhiên vuốt thì phải bằng tay); hoặc giả ông Lý Bạch cũng thế, còn sống dám ông cũng viết một bài “Tôi Yêu Đàn Bà Bằng Mắt” vì ông đã có thơ tán tụng Dương Quý Phi rằng “Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung” (Nhìn y phục mà nghĩ đến mây, nhìn nhan sắc mà nghĩ đến hoa); hoặc ngay kẻ viết bài này, tư nhiên giật mình tự hỏi không rõ mình từng yêu đàn bà theo trường phái nào, khi mà năm mười bảy tuổi, trong một lần... hoảng hốt đã làm một bài thơ có ý tạ lỗi trong có câu “Nếm nước mắt em thấy tình mằn mặn...”

Vậy thì thôi vậy, xin tự xếp đề tài trên vào ngăn kéo của những vấn đề bất khả tranh luận.

HÀ THÚC SINH


Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #302 - 07. Mar 2008 , 18:23
 
macco wrote on 07. Mar 2008 , 16:09:
ĐÀN ÔNG YÊU BẰNG GÌ?


.........
HÀ THÚC SINH




Cám ơn Mắc Cở nha, đang sụt sịt đọc bài này phải bật cười hí hí , nhất là đoạn Yêu Bằng Tai  Cheesy Công nhận ông Hà Thúc Sinh này tếu thật  Grin
Back to top
 
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #303 - 08. Mar 2008 , 06:55
 


...

CHUYỆN ĂN


Nguyễn Thượng Chánh & Nguyễn Ngọc Lan


Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời...

Tiếng Việt mình rất phong phú và rất đa dạng. Một tiếng hay một câu nào đó cũng có thể hiểu theo nhiều nghĩa, theo nhiều cách khác nhau, tùy theo địa phương (Bắc, Trung hay Nam), tùy cách nói, lúc nói và cũng tùy theo giới nào nói nữa...

Nào là hiểu theo nghĩa trắng, nghĩa đen, nào là tiếng lóng, nói theo kiểu mật khẩu cho riêng một vài người hiểu mà thôi. Đôi khi còn nói lái nữa, chẳng hạn như, khi gặp nhau nếu có ai hỏi thăm thì mình nói mình cũng vũ như cẫn (vẫn như cũ), hoặc Tết nhứt thì chúc nhau mạnh sự lòi (mọi sự lành). Một số chữ hoặc một số tên như Thu, Lan, Đức, Paul, Cự, Bắc, Đại, Mao, Dủ, Cao, Hai, Hải, Thái, Lài, Môn, Tôn, Tốt, Công, v.v…chỉ cần thêm phía sau một hai chữ khác là cái tên đẹp đẽ ban đầu kia sẽ biến thành tục tĩu hết biết luôn!

Nói lái là sở trường của dân miền Nam. Càng trẻ thì càng tếu, thì nói lái càng dữ. Đàn ông con trai thường ưa nói lái hơn đàn bà con gái. Nói lái càng tục chừng nào thì càng đã miệng chừng nấy! Khả năng nói lái chịu ảnh hưởng rất nhiều của giáo dục gia đình, của tôn giáo, của môi trường sống, và cũng tùy thuộc một phần vào cá tánh của mỗi người nữa.

Dường như não của con người có khả năng chọn lọc (sélectif) những gì nó muốn hiểu thì hiểu, những gì nó muốn biết thì biết, và những gì nó muốn nhớ thì nhớ mà thôi, còn những gì nó không cần biết đến, thì nó lờ đi quên đi. Bởi vậy, trong cuộc sống hằng ngày thường xảy ra lắm chuyện ngộ nhận, hiểu lầm, có khi cười ra nước mắt... Ông nói gà, bà hiểu vịt, là chuyện có thể xảy ra, đây chưa kể trường hợp bà nói thế để thử lòng hay để gài bẫy ông, nếu mình mà trả lời lạng quạng là có chuyện đó!

Nói vậy mà không phải vậy, nội cái chữ ăn không thôi mà đôi khi cũng là đầu mối của nhiều thứ rắc rối trong cuộc đời, ăn đôi khi cũng không phải là ăn.

Ăn để sống, chớ không phải sống để ăn, đây là câu thường được các nhà đạo đức thiệt cũng như đạo đức giả phán ra để dạy đời thiên hạ. Trâu bò, chó mèo, gà vịt chim chóc gì cũng đều phải ăn cả. Ăn thức ăn gì? Người và heo ăn đủ thứ, ăn cái gì cũng được hay là còn gọi là loài ăn tạp (omnivorous). Ở VN ngày nay, con gì nhúc nhích thì người ta cũng ăn được hết kể cả con kiến, con dế, bò cạp, cào cào, châu chấu, chuột, rắn, v.v… Chó mèo hùm beo là loài ăn thịt (carnivorous), còn trâu bò dê cừu là loài ăn cỏ (herbivorous). Ăn không no được gọi là ăn đói, còn ngược lại là ăn no.

Ăn cũng biến thái theo thời gian và không gian. Thời ăn lông ở lỗ, người ta ăn những loại thức ăn ít cầu kỳ hơn ngày nay, và cách biến chế các món ăn cũng khác hơn và đơn giản hơn.

Đồ ăn mỗi nước mỗi khác. Cách nấu món ăn mỗi nhà cũng mỗi khác, và ít có bà nào chịu tiết lộ thật tình bửu bối làm món ăn của mình cho các bà khác biết, vậy có hỏi nhau cũng vô ích mà thôi, có ai nói thiệt đâu mà ham!

Bình thường thì có ba bữa ăn chính trong ngày, ăn sáng còn gọi là ăn điểm tâm hay ăn lót lòng, ăn lót dạ, kế đến là ăn trưa và chót là ăn chiều. Có người còn chơi luôn một bữa ăn tối, ăn khuya nữa! Cuối tuần mình muốn đổi gu, thì đi ăn cơm Tây, ăn cơm Tàu, ăn Dim Sum, còn làm biếng ở nhà thì ăn cơm tay cầm (nghĩa là cầm ổ bánh mì để ăn) hoặc có gì ăn nấy.

Ăn ngon hay ăn dở cũng tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: thức ăn ngon, lúc ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon và phải có người bạn tri kỷ cùng ăn mới ngon. Đói bụng thì ăn cái gì cũng ngon hết. Thỉnh thoảng, mình nổi hứng đi ăn cơm tiệm lạ miệng cũng thấy thích hơn là ăn cơm nhà hoài. Có cha còn bảnh hơn, ăn cơm nhà hoài ngán quá, lại tìm đủ cách để đi…ăn phở (ý nói là đi ăn vụng, mèo mỡ), bị bà nhà bắt buộc phải ăn cho đủ ba chén cơm nhà rồi mới thả ra cho đi ăn phở, thế thì kẹt quá xá vì còn bụng dạ đâu mà tính tới chuyện đớp phở nữa... Còn nếu bạn có ăn phở (thứ thiệt) thì sau khi đã xơi gần xong, hãy thử bỏ thêm chút cơm nguội (đã để trong tủ lạnh một ngày) và tiếp tục ăn tiếp xem sau, vì có nhiều người rất thích kiểu nầy.

Nếu phạm tội bị nhốt nằm khám ở Việt Nam, thì đành phải ăn cơm tù chán phèo và đói meo. Các thầy trong chùa có khi chỉ ăn ngọ hay ăn trưa mà thôi. Các nhà sư Thái Lan thuộc tiểu thừa, mỗi sáng phải ôm bình bát đi khất thực (xin ăn), đồ ăn mặn, đồ ăn chay hay ăn lạt các thầy đều hoan hỷ nhận hết... Ở trong chùa, sau lễ Phật thì cúng vong, mình ở lại ăn cơm chùa, khỏi phải trả đồng xu cắc bạc nào cả, nhưng mà cũng nên bỏ chút đỉnh tiền công đức tùy hỷ vào thùng cúng dường để chùa khỏi bị khánh tận sạt nghiệp khiến các thầy bị mất jobs hết!  

Có người ăn bằng đũa, có người ăn bằng muỗng nĩa, nhưng cũng có người chỉ bóc thức ăn bằng tay như người Ấn độ vậy. Hình như họ chỉ sử dụng có tay mặt để bóc đồ ăn mà thôi, còn tay trái thì dành để rửa hay để chùi đ… Có người ăn lấy ăn để vì đói và cũng có người ăn no rồi mà vẫn phải ăn nữa để cho người khác được vui lòng. Có người ăn vì xã giao, rồi cũng còn có người ăn bằng con mắt, thí dụ như khi đọc được một quyển sách hay, người ta còn gọi đó là món ăn tinh-thần!

Về cá tánh, có người thì ba hoa chích chòe hay nổ dữ lắm, có người thì ba xạo, cương ẩu hết biết, ăn to nói lớn, bạo ăn bạo nói, không ngán sợ, không nể nang ai hết!

Lại có người bị ăn loi, ăn dao, ăn búa vì cà chớn quá hay đi giựt đào, hay đi gù vợ người khác! Còn có người hay ăn lạp xạp tối ngày để cho bớt sự buồn chán…

Con nít đẻ ra, tháng đầu tiên thì ăn đầy tháng, được tròn 12 tháng thì ăn thôi nôi, bắt cục sôi hay cây viết thì biết sau nầy nó sẽ làm nghề gì (không chắc lắm!), cùng lắm thì cũng được ăn queo phe (tiền trợ cấp xã hội) nếu sống tại Âu Mỹ. Thời buổi văn minh, mỗi năm trẻ em đều được ăn lễ sinh nhật của mình, lãnh ca đô cả đống, nghĩ lại tủi thân phận mình vì hồi nhỏ tui có bao giờ được ăn sinh nhật của tui lần nào đâu, chỉ có đi ăn đám giỗ, ăn đám ma hay ăn đám cưới của người khác không hà!

Theo phong tục VN, mỗi năm đều có nhiều ngày lễ cho người sống và cho cả người chết, thường thì những ngày lễ kỷ niệm nầy là những dịp để cùng nhau ăn nhậu cho thỏa thích. Truyền thống nầy rất hay, cũng là dịp mà anh em, bà con, họ hàng bạn bè gặp nhau một năm một lần để tâng bốc, tâm sự và có khi cũng để tuôn trút ra những chuyện gia đình luôn thể!

Mua nhà mới thì phải ăn khao, ăn mừng làm tiệc ăn tân gia cho nó le, trước để nhận quà sau là để khoe của với người ta cho nó xôm tụ. Sau đó, thì hai vợ chồng phải méo mặt ngày đêm ra sức kéo cày sạt gạch trong cả chục năm mới đủ tiền trả nợ thế chấp mọt ghê (mortgage)!

Theo văn chương Cầu Muối, thì ăn được xếp hàng đầu trong tứ khoái, đó là ăn, ngủ, ậy và ể…đây phải nói rõ là chuyện đớp hít ăn ngon, ăn sướng, ăn cho đã miệng mà thôi, tuy nói vậy chớ bốn cái tứ khoái nầy đều quan trọng như nhau và có thể thay đổi thứ tự tùy theo hoàn cảnh, theo tuổi tác và theo sức khỏe của mỗi người nữa... Hồi trẻ thì tứ khoái rất mạnh, càng về già nó càng giảm đi lần lần để rồi tịt ngòi luôn. Bốn cái đó có hanh thông thì mới sống được, chớ nếu có một cái bị trục trặc là có chuyện đó. Các nhà đạo đức thiệt cũng như đạo đức giả, các nhà ba phải và các tôn giáo lớn thường hay khuyên con người cần phải kềm chế (control) ăn, ngủ và ậy, còn lại món ể thì họ tha cho, không dám đá động gì đến nó hết vì đây là luật tạo hóa có vô thì phải có ra. Đối với các nhà sư Phật giáo và các linh mục Công giáo, nếu tu hành thật sự chính chắn thì họ cần phải giữ giới, không có quyền nghĩ tới cái vụ kia, phải cố gắng diệt dục để mau được đắc quả lên Thiên Đàng hay Niết Bàn gì đó.

Ai cũng phải ăn hết, con nít đẻ ra 6-7 tháng răng cỏ vừa chốm nhú ra là bắt đầu ăn rồi. Bạ gì ăn nấy. Nếu cháu thình lình yếu ăn thì chắc bị bệnh hoạn gì đó... Con người ta ăn suốt cuộc đời, đến già răng cỏ rụng hết, trồng hay gắn răng giả vô ăn tiếp. Đến khi ăn không nổi, hết muốn ăn nữa, nuốt không vô, thì con cháu chở tía vô giao cho nhà thương lo. Người ta đút ống vô bao tử để bôm thức ăn, đút ống vô lỗ mũi cho tía thở, đút ống vô chim cho tía đé, nhét vaseline vào lỗ đ.. cho trơn để tía ể cho dễ. Người tía toàn là dây nhợ và ống không hà, thấy tội lắm, tía càng ngày càng ốm nhom ốm nhách chỉ còn da bọc xương như bộ xương cách trí mà thôi. Ngày nầy qua ngày nọ, tía nằm đó thoi thóp, ngáp ngáp mà hồn tía ở tận đâu đâu. Tía ơi, ngoài kia vòng tử sinh Samsara đang chờ đón tía đó!

Ngày xửa, ngày xưa, có một thi sĩ bất cần đời, đã nói “thu ăn măng trúc, đông ăn giá, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao, rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp, nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Sống kiểu nầy sao giống đi vacation vậy cà. Nhưng đây là sống theo kiểu thiền, sống nhàn hạ, gần gũi với thiên nhiên, quả là hạnh phúc quá rồi, ganh đua làm chi cho khổ cho mệt, nhưng ngày nay thử hỏi có mấy ai thực hiện được như thế đâu!

Mỗi lần có họp hành gì, thì có người ăn nói rất là hay, giỏi chỉ trích, giỏi nói hơn giỏi làm, chắc là hội viên của tổ chức NATO (no action talk only) quá... Họ thuộc vào hàng giám đốc (đốc xúi người khác) hết chớ chẳng phải chơi đâu!

Hồi còn nhỏ mình thích chơi nhà chòi, nấu cơm ăn giả. Cũng có vài trò chơi mình chơi ăn thiệt, như đánh bài, đánh cờ chẳng hạn. Ăn thua không quan trọng, miễn sao được vui là đủ rồi. Có khi cũng chơi ăn gian, gây lộn, ăn thua đủ với nhau rồi cũng huề cả làng mà thôi. Ăn nhằm gì ba cái lẻ tẻ đó!

Có nhà có cửa vẫn hơn là ăn bờ ngủ bụi, ăn nhờ ở đậu, ăn dầm nằm dề nhà người khác bị chủ nhà chửi là thứ đồ ăn bòn, thứ đồ ăn hại... Kẻ ăn người ở trong nhà, được chủ giao cho đi chợ, thì có khi cũng ăn lời, kiếm chút đỉnh anh hai để ăn quà, ăn vặt…

Đi ăn cưới, thì lúc nào cũng bắt đầu bằng mấy món ăn chơi, sau đó rồi mới tới mấy món ăn thiệt, sao không thấy mấy món ăn giả đâu hết. Nhưng ngược lại, thì những lời đẩy đưa giả dối đầu môi chót lưỡi không thiếu gì. Lúc ăn, thì có người ăn nói tía lia, gắp xỉa lung tung lia lịa như ở nhà vậy. Cũng có người ăn nói rất bạt mạng bạo gan, nổ dữ lắm để bắt le, hay châm biếm, xỏ ngọt, ăn ốc nói mò, ăn có nói không, chê bai người nầy, kích bác người khác, móc lò người nọ, khoe mình, khoe của, khoe con, hình như chỉ có một mình họ là ngon lành, là chân lý còn tất cả người khác là đồ bỏ, là cỏ rác hết mà thôi! Người cùng bàn nếu yếu bóng vía, thì sân si sẽ sôi lên sùng sục, ăn hết ngon. Có người thì chẳng chịu thua chịu lép một ai, nên ăn miếng trả miếng khiến không khí trên bàn tiệc trở nên căng thẳng quá xá quà xa.

Back to top
« Last Edit: 08. Mar 2008 , 07:04 by macco »  
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #304 - 08. Mar 2008 , 06:58
 
Ông già bà cả thường hay nói, ăn coi nồi ngồi coi hướng, đó là muốn dạy chúng ta khi ngồi vào bàn ăn, phải đàng hoàng dòm trước ngó sau cho đúng phong cách của người lịch sự, biết kính trên, nhường dưới... Miếng ăn là miếng tồi tàn, ý muốn nói cũng đừng vì một miếng ăn mà phải bán rẻ nhân phẩm của mình.

Trong nhiều gia đình cũng vì giành ăn mà anh em phải xích mích nhau, kiểu chị ăn cá em mút xương, chị ăn kẹo em mút cây, v.v…xảy ra không thiếu gì, có khi máu sân si nổi lên dám nói lẫy là: nè, lấy đi, ăn dọng gì ăn đi! Lại có gia đình thì đời cha ăn mặn đời con khát nước, thì cũng đúng với quy luật thường tình của tạo hóa mà thôi, giống như là câu giận cá chém thớt hay cha làm con chịu vậy!.

Nhà ăn tập thể là nơi công nhân xí nghiệp vào đó để dùng bữa. Ham ăn hốt uống là chỉ những hạng người du thủ du thực chỉ biết có ăn mà thôi, ngoài ra các thứ khác đều không quan trọng. Ăn cỗ thì đi trước còn lội nước thì đi sau, khôn thấy mẹ! Có người ăn ở bất nhơn thất đức, nhưng ngược lại cũng có người ăn hành ở liền (ăn hiền ở lành)...Ăn đồng chia cho đủ để tránh gây gổ với nhau.

Ở thôn quê, người ta ăn nói mộc mạc như ăn dằn bụng ba hột cơm rồi hãy ra đồng mần việc! Còn mấy bà già trầu thì hay rủa mấy cậu thanh niên...“bộ tụi bây ăn phải đồ dơ của ai hay sao mà ngu quá vậy”... Hèn chi, đời mới có lắm kẻ ngu như thế nầy! Nói vậy, thì đàn ông con trai Tây Mẽo và VN ở thời đại văn minh bi giờ đều ngu hết hay sao vậy cà?

Ngày nay, càng ngày càng có nhiều giới trẻ thường từ bỏ nông thôn ruộng vườn vừa cực nhọc mà lại cũng vừa lâu ăn huê lợi được. Họ mu lên thành thị để sống khỏe hơn, dễ kiếm việc làm, có khi làm ăn công, làm gì cũng được, có làm có ăn, có ít ăn ít có nhiều ăn nhiều, mà lại mỗi đêm còn có em út bia ôm, cà phê ôm, karaoké ôm nầy nọ, cho đời thêm hương chẳng thua gì các đại gia, sướng lắm.

Có đói bụng thì ăn lai rai vài cái bánh tráng mè dằn bụng cho chắc ăn, chờ cơm chín rồi mới ngồi vô bàn. Sau những ngày mần việc mệt nhọc, cuối tuần bọn nình ông hay tụ họp ăn nhậu với nhau, nhưng họ hổng thích có nình bà con nít xía vô ăn vã phá mồi.

Tại các xứ Tây xứ Mẽo, đi làm thêm ngoài giờ quy định thì được ăn tiền phụ trội, tiền súp (supplémentaire), hay tiền ô quờ thêm (overtime), một giờ tính bằng một giờ rưỡi, hoặc bằng hai giờ. Khi bị mất việc, thì được ăn tiền thất nghiệp, về hưu thì ăn tiền hưu trí đến lúc già thì ăn tiền già, không có việc làm thì mình có quyền ăn tiền xã hội. Nếu bạn là công chức, nếu lỡ chết thình lình, thì bà xã được ăn tiền tử (death benefit), rồi còn ăn tiền bảo hiểm nhân thọ nữa cũng đủ để vợ con trang trải chi phí tang lễ, hay hỏa táng, bạn khỏi phải lo lắng thắc mắc làm chi, cứ yên tâm nhắm mắt mà...đi đi để người ta còn có thì giờ tái giá!

Trên bàn ăn, nên ăn miếng nhỏ, ăn nhỏ nhẹ, ăn xong rồi hãy nói, xỉa răng phải che để khỏi văng tùm lum làm mất thẩm mỹ thấy ghê quá chừng! Đi ăn buffet, nên lấy vừa đủ ăn, ăn cho nó lỗ chỉ khổ cho cái bụng mình, ăn hết mới đi lấy nữa, lấy nhiều ăn không hết bỏ tội chết đi!

Ở xứ mình, thời nào cũng có tệ nạn con ông cháu cha cocc, ăn hối lộ, lớn ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ. Hồi trước 75 cũng như bây giờ, có những tai to mặt lớn là hạm ăn tiền viện trợ, ăn phân bón, ăn thuốc trừ sâu, ăn xi măng, ăn thiếc, ăn sắt... Làm việc gì cũng bị bọn họ ăn bòn, ăn bớt, ăn hớt khiến dân tình thấp cổ bé miệng rất ư là khốn khổ. Ngày xưa hay ngày nay cũng thế, tệ nạn ăn hối lộ, ăn đút, ăn chẹt, ăn lót quá ư là phổ biến, muốn được việc thì phải biết đút lót cho họ ăn chút đỉnh, đúng nghĩa kẻ cơm người cháo chớ có gì là lạ đâu. Nạn bè phái, ăn chặn của công, ăn tiền mãi lộ, ăn rút tiền viện trợ, tiền cứu trợ nầy nọ…là chuyện rất phổ biến như ăn cơm bữa vậy. Ăn là một tệ nạn hệ thống hóa từ trên xuống dưới. Thực là ngồi mát ăn bát vàng, khỏe ru bà rù!

Mấy năm gần đây, trong nước cũng như ở hải ngoại đã bộc phát ra dịch quyên góp tiền từ thiện một cách ồ ạt vô tư lạ thường. Phải chăng cái dịch vụ kinh doanh từ thiện (charity business) nầy là một lối kiếm ăn mới mẻ đầy tính tâm lý sáng tạo?... Thiệt giả vàng thau lẫn lộn, ai muốn làm thì cứ làm, ai thấy mình cần phải cho thì cứ việc cho, không ai ép buộc ai hết, tùy hỷ mà... Ai cũng ăn cánh được hết, họ hợp thành phe cánh ăn chia với nhau để kiếm lợi. Ai cũng có thể nhân danh từ thiện nhảy ra làm ăn được hết. Họ khai thác triệt để lòng hảo tâm của Việt kiều tị nạn ở hải ngoại, nhất là làm cho họ có mặc cảm tội lỗi, lương tâm cắn rứt nếu hổng chịu giúp chút đỉnh cho đồng bào khốn khổ lầm than bên nhà. Mạnh ai nấy quyên nấy góp, rất hăng hái, hồ hởi phấn khởi…Vui lắm, vừa xem văn nghệ, vừa đớp hít lại vừa nhảy nhót mà hổng tới một bò...“Trước mua vui sau làm nghĩa” hoặc “Miếng khi đói bằng gói khi no” hay “Của tuy tơ tóc nghĩa so ngàn trùng”, v.v...Ai dám nói dân tị nạn mình không giàu lòng nhân ái đâu?

Chuyện tranh ăn đôi lúc cũng không thể tránh khỏi. Ăn không được thì phá cho hôi, cho bỏ ghét, chẳng khác gì trâu cột ghét trâu ăn. Phe nầy tổ chức thì phe kia cũng bắt chước làm theo. Ai cũng giành độc quyền thương người tàn tật khốn khổ bên nhà. Đúng là thương người như thể thương thân... Nhưng ở đời, hễ dính tới tiền bạc thì rắc rối lắm, dễ bị thiên hạ nghi kỵ hiểu lầm nầy nọ. Chuyện nói xấu chụp mũ qua lại cũng thỉnh thoảng khó tránh khỏi. Lâu lâu, cũng có xì ra một vài vụ lem nhem, nhưng mà rồi những người có lòng nhân ái thật sự, đều lại nghĩ đại khái là: “thây kệ, có ít còn hơn không”, hoặc là “người ta ăn thì còn, mình ăn thì mất”, hoặc “gieo nhân nào gặt quả nấy” hay “tụi nó làm bậy tội ráng chịu” đúng theo tinh thần của Thiên Chúa giáo hay Phật Giáo, có nghĩa là làm phước thì sẽ gặp phước, làm lành sẽ gặp lành, v.v…, nên rồi đâu cũng lại vào đó mà thôi!

Trong nước, thì vợ công nhân viên biên chế (bên nầy Tây Mẽo gọi là permanent) thì ăn theo chồng. Những kẻ ăn trên ngồi trước lúc nào cũng hưởng nhiều quyền lợi và bổng lộc vì biết nguyên tắc ăn chia cho cấp trên cấp dưới, vui vẻ cả làng! Cũng có một hạng người háo danh, ăn cơm nhà đi lo chuyện bao đồng của thiên hạ, lăng xăng lạch xạch chạy tới chạy lui cho ra vẻ ta đây... Cũng có người bợ đít, ăn bã mía mong kiếm chút cháo!

Làm chuyện gì thì cũng bị họ đòi ăn tiền trà nước, ăn tiền đầu tiền đít, ăn hai đầu, có khi gọt mình sát ván mà còn nói toàn là ơn với nghĩa không hà! Lúc đi vượt biên thì bị đòi ăn toàn cây, mà phải là cây ba số 9 (vàng Kim Thành) mới được. Có khi tiền họ đã lấy đủ nhưng ăn trớt không thèm giúp đỡ, hoặc có khi họ còn bỏ rơi mình ở lại một cách không kèn không trống nữa. Đúng là quân bất lương, cái đồ ăn cướp!

Sau 75, họ chủ trương chính sách ăn no mặc ấm, ăn chắc mặc bền trước, rồi sau nầy  mới có thể nói đến chính sách ăn ngon mặc đẹp, ăn sung mặc sướng được! Trong thời buổi khó khăn đó, lo cái ăn cái mặc cũng đã hụt hơi rồi còn sức đâu mà làm những chuyện gì khác, lại có người bị xuống dốc đâm thất chí, ăn nói lảm nhảm hoặc đổi tánh trở thành ít ăn ít nói, lầm lầm lì lì suốt ngày suốt tháng để…suy nghĩ về thế sự thăng trầm hoặc về tình đời thay trắng đổi đen, nhưng có người cũng biết an phận thủ thuờng, nín thở qua sông, chờ thời…Trong đời sống hằng ngày, đa số dân chúng VN phải chịu cảnh ăn dặm, ăn độn khoai mì, bo bo để cầm hơi đỡ đói, và cong lưng đạp xe đạp xe máy suốt ngày, nắng cũng như mưa. Nhờ cái môn thể thao exercise bắt buộc và bất đắc dĩ nầy mà rất tốt cho sức khỏe, nên ít ai bị béo phì như tụi Tây tụi Mẽo bên nầy!

Ông bà mình có nói, khéo ăn thì no khéo co thì ấm, thật đúng quá mà…Ai ăn ngay nói thẳng dễ sinh mích lòng, dễ bị thiên hạ ganh ghét và có khi còn bị trù ẻo nữa. Ăn nói tráo trở lật lộng là nói thế nầy mà lại làm thế kia! Còn tệ nạn COCC, con ông cháu cha thời nào cũng vậy, ăn trên ngồi trước, ăn không ngồi rồi, ăn xổi (ăn ngay không để lâu) ở thì, ăn báo chế độ, sướng thấy mẹ. Thời trước cũng như thời nầy, con cái của họ được cho đi ăn học nước ngoài, đi du học ào ào bên Tây bên Mỹ, tiền bạc hổng phải là vấn đề đối với họ. Cửa hàng ăn uống mọc lên khắp phố phường, sáng trưa chiều tối đều đầy nhóc người ngồi ăn nhậu, ăn tục nói phét, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu...Trong cảnh khốn cùng cũng còn có người thức thời nhiều sáng tạo, nhảy ra làm ăn, trước thử làm chơi, sau thành ăn thiệt, người khác thấy vậy cũng nhào vô ăn có, nhưng đâu phải là dễ gì...Phàm làm việc gì cũng phải có ăn chịu cả. Dân kinh tế mới ùn ùn kéo về ăn bám, ăn gửi, ăn vạ thành phố, gây cảnh xô bồ hỗn độn mất an ninh trật tự khắp nơi.

Tệ nạn ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp diễn ra hà rầm bất kể ngày đêm, nhất là trong các xóm bình dân lao động có nhiều ngõ ngách ăn luồn ăn thông với nhau. Gái ăn sương, ăn đêm, chị em ta, chị tình hay gà móng đỏ ăn vận, ăn mặc diêm dúa, tụ tập nơi các quán ăn quán nhậu, quán cà phê mời mọc khách tìm của lạ. Bỏ cơm nhà ăn cơm chợ đổi món đỡ ngán, ăn phở, ăn bánh trả tiền đổi bữa... Dù trời nắng gắt bạn vẫn phải nhớ trùm áo mưa đàng hoàng nghe bạn, nếu không dám bị bể ống khói bất tử hay mầm Sida ăn mòn, ăn lần tâm can tì phế thận ắt phải ăn đất (chết) thôi, chừng đó có ăn năn thì cũng đã muộn rồi! Có bạn có tí máu văn nghệ thì trốn vợ nhà, chạy tìm bò lạc chở đi.. ăn chè khoái hơn. Đúng là hảo ngọt. Bà nhà mà biết được thì kể như bị ăn đòn. Ông dám ăn vụng thì bà cũng dám nhảy rào trả đũa, ông ăn chả thì bà ăn nem, huề cả làng!

Tình hình như thế mà cũng có người nhờ tiền chôm chỉa, nên họ dám ăn xài phung phí, ăn chơi phè phỡn, họ chỉ biết ăn sung mặc sướng chớ đâu bao giờ chiụ ăn cực ăn khổ đâu. Có lẽ họ thấm nhuần câu tháng giêng là tháng ăn chơi, và theo họ thì trong năm chỉ có 12 tháng giêng để cho dễ tính dễ nhớ mà thôi. Ngược lại, cũng có người nghèo tận xác đi, mì gói, mì Ramen, mì hành, mì hai cua, mì Kung Fu, mì ăn liền làm chuẩn, giúp họ ăn qua ngày cầm hơi đỡ dạ!

Chùa chiền thì bị bọn ăn xin ăn mày vây kín suốt ngày. Đi chùa lễ Phật mà cũng có người chưa tỉnh vẫn còn mê, còn chấp ngã ăn nói khó nghe, mở miệng ra là Mô Phật nhưng hễ ai nói đụng tới cái ngả của mình thì cái sân si ùn ùn sụt sụt nổi lên. Đôi khi họ lại hay nói xấu người nầy, dèm pha chê bai kẻ khác, hơn thua nhau từng tiếng một, nói bóng nói gió, nói móc lò móc họng, nói cao nói thấp, quên cả Bát Chánh Đạo ở tận đâu đâu...Người ta nói thà ăn mặn nói ngay, còn hơn là ăn chay mà nói dối!

Chợ búa thì ê hề món ăn, có thứ ăn sống, ăn chín, có thứ ăn nóng, ăn lạnh, có thứ ăn khô, có thứ ăn ướt. Hủ tiếu thì có người thích xào khô, nhưng cũng có người thích xào ướt, thường thì xào khô trước rồi xào ướt sau mới đúng điệu là biết...nghệ thuật ăn. Ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối không sợ thiếu món nào cả! Hàng quán mất vệ sinh khiến khách hàng có khi ăn nhầm thức ăn bẩn nên bị ngộ độc thực phẩm ngã bệnh cả lũ. Vậy, ăn uống phải cho cẩn thận kỹ lưỡng để khỏi bị chết oan vì bệnh tòng khẩu nhập! Có mấy người quen mới đi du lịch VN về, nói bên đó ăn từ sáng tới khuya, đâu đâu cũng thấy ăn bất kể giờ giấc, thật đúng là Sài-gòn Ăn.

Có người cũng nghĩ là trong đời, ăn uống là ba cái chuyện lẻ tẻ, ăn nhằm gì mà phải bận tâm. Trong gia đình cũng có những người ăn uống rất khó khăn, rất kén ăn, chọn món nầy chê món nọ, đòi hỏi đủ điều, chê bai, hạch sách vợ con đủ thứ, tưởng mình là vua trong nhà. Nếu chẳng may ngã bệnh, lên máu, tiểu đường, sợ chết quá mới nghe lời bác sĩ, ép mình miễn cưỡng ăn kiêng... Cũng có cha sao hay quá xá cỡ, vì có thể bắt nạt vợ nhà làm việc thấy bà, còn mình thì phè phỡn ăn no ngủ kỹ, số sướng thật, có lẽ cha nội nầy đẻ bộc điều hay vì nhờ kiếp trước khéo tu nên được hưởng quả kiếp nầy chăng? (Nói rõ hổng phải tui đâu). Có người thường có lộc ăn, bạn bè lôi kéo đi ăn nhậu suốt ngày hoặc được biếu xén đủ thứ món ngon vật lạ, có lẽ nhờ số tử vi có sao Lộc tồn, Thiên Trù, Hóa Lộc, Tấu Thư chiếu mệnh... Có cha thì phớt tỉnh ăn glê, không quan tâm đến thế sự thăng trầm, ăn sao cũng được, ăn ít ăn nhiều cũng vậy thôi, hổng khen ngon mà cũng hổng chê dở, chán thấy mồ tổ, có lẽ anh ta đang tu thiền hoặc đang bị bệnh trầm cảm gì đó chăng?... Cũng có cha tánh cẩu thả, ăn ở bầy hầy, ăn trây ăn trét, khiến bà chị bực mình vì phải dọn dẹp trối chết, mệt thấy mồ tổ, sanh đổ quạu, cáu có điện xẹt bất tử cũng dễ hiểu mà thôi!

Trong thảm cảnh vượt biên, rất nhiều đồng bào mình đã từng nếm qua rồi, ăn dụm để dành, được ăn cả ngã về không, năm ăn năm thua, có bao nhiêu tiền vàng đều chụm vô hết cũng chỉ vì hai chữ tự do là vô giá (freedom is priceless)... Có người thì tìm cách bán nhà bán cửa về quê cạnh sông cạnh biển ăn gửi nằm nhờ, ăn chực nằm chờ, ăn gió nằm sương nhà bà con để chờ có dịp là vọt liền lập tức. Nếu lỡ đi không lọt thì phải ủ tờ (ở tù), bị nhốt ở chấp pháp, bắt lao động thấy bà, nếu khéo chạy chọt đút lót thì được thả mau, còn xui hơn thì đôi ba năm nằm ấp, rồi cũng được thả về, nhưng phải làm tờ tự kiểm nay đã ăn năn hối cải, tui xin chừa, tởn lắm rồi. Được tạm tha trả về nguyên quán làm ăn, gom góp tiền bạc chờ ít lâu có cơ hội là lại…vọt nữa! Đúng là bắt cóc bỏ dĩa…

Hồi hợp, lo âu mất ăn mất ngủ hổng kể xiết trong thời gian chuẩn bị nằm chờ ở nhà, thật là trần ai lai khổ, ngậm bồ hòn nuốt đắng, nín thở qua sông...

Ngoài biển, thì hải tặc Thái Lan muốn ăn tươi nuốt sống mình, nhảy qua ghe kiếm ăn, mã tấu súng ống dao búa đầy người, hãi hùng lắm bạn ơi, thiếu điều muốn…tè tại chỗ. Mà đâu phải chỉ có một lần đâu, thằng nầy đi thì báo cho thằng khác đến ăn hàng tiếp. Các bà các cô khiếp quá phải lấy dầu lấy mỡ lấy cả đồ dơ, thoa trét khắp mình mẩy cho tụi nó ghê nó tởm mà tha cho. Cầu Trời, khẩn Phật, cầu Chúa, cầu xin Cô Cậu, xin người khuất mày khuất mặt hãy thương xót, phù hộ che chở cho tui tai qua nạn khỏi, ai giúp cũng welcome hết, nguyện khi thoát nạn sẽ xuống tóc ngay lập tức, ban ngày ăn chay ăn lạt, còn tối lại len lén lai rai mì thịt, mì hành cho đỡ xót ruột khó ngủ. Lần chuỗi niệm Phật một tháng không sót một ngày. Xin hứa danh dự mà!

Có người không may mắn thì làm mồi cho cá mập ăn mất xác hoặc đi chầu Hà Bá Diêm Vương.

Người ở nhà thì tự hỏi, không biết ăn cái giải gì mà bọn họ phải liều mạng trốn đi như vậy kìa? Rồi cuộc đời thay đổi đổi thay, tới được bến bờ tự do, nhiều người bắt đầu lột xác cho hợp với phong cách của miền đất hứa, có người cũng đi quá đà…Luân thường đạo lý Đông phương đảo lộn nhường chỗ cho tự do cá nhân và giá trị kim tiền vật chất của xã hội Tây phương. Hai ba chục năm sau, có người còn quên luôn lời hứa buổi ban đầu, thề thốt nầy nọ, cũng như không nhớ vì sao ngày xưa mình phải cực khổ liều thân liều mạng trốn đi tị nạn bên Tây bên Mẽo! Ôi, đời là một chuỗi đổi thay không ngừng, tình đời thay trắng đổi đen biết đâu mà rờ.

Back to top
 
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #305 - 08. Mar 2008 , 06:58
 
Tại Canada, phần đông những người làm việc trong hãng xưởng đều ăn lương giờ và được phát check mỗi tuần vào ngày thứ năm. Nghe nói có người vừa ăn tiền xã hội và cũng vừa ăn lận làm chui ăn gọn, lãnh tiền mặt xú táp (sous table) khỏe ru bà rù! Có người ăn trắng mặt trơn không biết tiền của từ đâu mà họ sống phủ phê quá, ăn không ngồi rồi, nhàn rỗi đi ngồi lê đôi mách chuyện của thằng cha nầy con mẹ kia.

Cũng tại Bắc Mỹ nầy, cũng có một số người xâm mình bất chấp luật pháp, mua nhà mới để trồng cỏ (cần sa) dưới hầm nhà (basement). Vốn một lời mười. Họ đi du lịch VN hà rầm, xài tiền như nước, cho nên bên nhà gọi những người nầy là Việt Cỏ. Họ đi du lịch như đi chợ, chớ đâu có phải cực khổ kéo cày kiếm ăn như bọn mình đâu. Ham chưa! Nói vậy chớ láng cháng bọn họ cũng bị đồng bọn hay băng đảng khác thanh toán cho ăn kẹo đồng như chơi vì ăn chia không điệu hoặc vì tranh ăn hoặc muốn ăn thua đủ với nhau! Băng đảng xã hội đen gây khốn đốn khắp nơi, họ thường cắt máu ăn thề trung thành sống chết có nhau, bao che lẫn nhau vì ăn cây nào thì phải rào cây nấy mà lỵ, v.v…

Trai gái thời bi giờ thì ăn ở trước cho sướng đã, thử cho biết mùi đời coi có hợp gu, ăn rơ, ăn ý với nhau hay không, sau đó mới tính tới chuyện cưới hỏi cho vừa lòng mẹ cha! Chuyện làm mai làm mối ăn đầu heo dường như hiếm thấy xảy ra ở cái thời buổi nầy! Chuyện ăn hỏi là khuya rồi. Mà theo giới trẻ thì hổng cưới hỏi thì cũng hổng có sao, chả có chết thằng Tây nào mà còn đỡ rắc rối sau nầy, đúng với câu mà nhiều kẻ phải gió thường nói “Cưới hỏi là nguyên nhân của ly dị. Nếu hổng có cưới thì làm gì có ly dị được!”

Khác với bọn trẻ ngày nay, tụi mình ngày xưa hễ lấy ai là để ăn đời ở kiếp với nhau mà dù có muốn bỏ cũng hổng dám, chớ có phải đâu vui thì ở còn buồn thì bye bye.

Nhưng chuyện vợ bé vợ mọn, bà lớn bà nhỏ cũng rất phổ biến như ăn cơm bữa. Vợ một vợ hai, hai vợ đều là vợ cả. Nghĩ cho cùng thì đàn ông ngày trước sao gan quá Trời quá đất. Đâu phải ai cũng ăn trơn mặc trắng hết đâu... Mà cũng tại xã hội hồi đó chấp nhận trai năm thê bảy thiếp chớ biết sao bi giờ...chắc muốn bắt chước đạo Hồi giáo quá. Rồi lại cũng khắc khẩu, cũng xực nhau hà rầm, đấm bàn, đá ghế, vừa văng tiếng Đức vừa phang chén phang dĩa bay vèo vèo thấy mà phát sợ, khiến con cái khóc thé lên náo loạn rùm cả xóm... Rồi cũng mầy mầy tao tao, ông ông bà bà, thằng thằng con con, đồ nầy đồ kia cho đỡ tức... Rồi sau đó thì bà ngồi khóc xụt xịt ở nhà bếp, còn ông tịnh khẩu phì phà điếu thuốc 555 ở nhà trên... Rồi chờ sóng lặng gió êm, họ kéo nhau…lên giường múa lân làm lành với nhau. Sáng ra nhìn mặt tủm tỉm cười mí nhau. Xí!

Con cái bên nầy cũng khó dạy ghê, cậu ấm cô chiêu là vua con trong nhà mà, ăn xài thả cửa, ăn bận phủ phê theo mốt theo miết. Đầu nhuộm xanh nhuộm đỏ như chim két xổ lồng. Tụi nó rất chì, dám xỏ mũi xỏ môi xỏ lưỡi xỏ rún xỏ tai, xâm ngực xâm đít, xâm vai xâm bụng tùm lum, thấy mà phát sợ dễ tè. Lở có gì thì có bố mẹ lo. Cuối tuần thì dẫn bạn bè, tụ năm tụ bảy, về nhà cha mẹ ăn rỗi, làm sạch trơn tủ lạnh khiến mom méo mày méo mặt. Không lo ăn học đàng hoàng, không biết ăn năn hối cải, tối ngày ăn chơi, lêu lỏng, cà nhỏng khắp nơi, hay cãi bướng, ăn nói thì cộc lốc phang ngang bửa củi, toi toi, moi moi, you you, me me, Cool, v.v...! không biết lễ phép chút nào hết. Cha mẹ nào dám cho tụi nó ăn bộp tay hay cho chúng ăn roi vào đít đâu, lỡ chúng gọi 911 kêu phú lích tới thì rắc rối lắm! Kể như mất con luôn. Lỗi cũng tại tía má quá cưng chiều con, không biết dạy chúng mà thôi. Ai biểu ham vui khi trời vừa tối, thì đừng có than. Đẻ nó ra thì phải ráng chịu cho quen.

Tuy nói vậy chớ phần đông con cái người VN tị nạn ở bên nầy rất chăm chỉ học hành, siêng năng nổi tiếng, rất thành công trong học vấn, ăn nên làm ra hết, làm Tây Mẽo phải lé mắt thán phục ganh tị quá đỗi. Cũng có đứa kiếm việc làm hoài mà không có, kiếm ăn không được bèn đành phải ăn bám ở nhà cha mẹ chớ biết sao bây giờ. Nó là con mình mà, nó còn ở với mình là mình có phước lắm đó, chớ nên than vắn than dài làm chi, nếu là Tây thì cha mẹ nhắc khéo biểu đứa nhỏ ra riêng, nhưng thường thì thằng nhỏ hay con nhỏ cũng tự động đi mướn apt ở riêng cho nó được tự do, để bố mẹ khỏi nầy nọ nực lắm. Cuối tuần, kẹt tiền đói quá thì vọt về cầu cứu với mom!

Trong đời sống gia đình, ăn chung hay ăn riêng cũng tùy…, đôi khi bà nhà lại nổi chứng mặt mày chù ụ biếng ăn bất tử, đó là báo hiệu điều bất lành. Vậy bạn hãy lén mở tủ lạnh coi cái bánh bao, ổ bánh mì mua ở phố tàu còn có đó hay không? Bạn hãy tự kiểm lại mình coi có làm gì cho bả hờn bả giận hay không? Ráng năn nỉ, quỳ hai gối chống hai tay chịu lỗi tưới hột sen, hứa lèo hứa cuội đại đi, thề bán sống bán chết đi, hổng có sao đâu, bà chị cảm động quá, chỉ chờ có bấy nhiêu thôi, rồi bảo đảm bả sẽ lại ngồi bàn với bạn đó, vui vẻ cả làng, rồi khi biển đã lặng sóng đã yên thì tịch tình tang đưa em vào mộng! Bảo đảm đàn bà rất tình cảm, hổng có giận lâu đâu mà sợ. Ông bà mình thường nói là ngọt mật chết ruồi mà lỵ!

Còn có chị kia, hổng thấy chồng đâu cả, nhưng bụng chị càng ngày càng phình to ra như trái ballon, không biết chị đã ăn nằm với ai vậy cà? Có lẽ quen ăn không quen nhịn mà lại quên uống thuốc, tính lộn ngày hay tại thằng chả gấp quá hổng kịp trùm áo mưa nên vướng phải cái bầu ráng mà chịu! Đúng là mình có 1001 chuyện tò mò, hay dòm ngó chuyện của người khác quá xá trời rồi đó nghen!

Con nít nhỏ thấy người lớn đang ăn mà đứng nhìn lom lom cái miệng, bộ muốn ăn chực hay sao? Thức ăn vụng rơi rớt mà lượm lên ăn thì gọi là ăn mót. Hồi trước lúc còn ở bên nhà, tui thường nghe người lớn chế ngạo những đứa nhỏ nào vừa khóc rồi lại vừa cười ngay sau đó, là “lêu lêu mắc cở vừa khóc vừa cười ăn mười cục cứt”.

Bên này, đi ăn cưới, trước tiên là phải nhớ bỏ bao thơ tiền vào thùng, rồi ký sổ lưu niệm, sau đó thì xề qua chụp ảnh với cô dâu chú rể. Đôi trẻ chụp hình rất ăn ảnh như đôi tài tử Hongkong vậy, chả bì với hai bác như hai cây tre già xế bóng!

Các vợ chồng già, con cái đã lớn đều đi hết rồi, buồn chán thấy mẹ nên lâu lâu bày đặt ăn mừng kỷ niệm 25 năm ngày cưới, ngày sinh nhật, rồi mừng ngày về hưu, lễ thượng thọ, lễ vàng (noce d’or), lễ bạc (noce d’argent) rồi lại lễ mừng vào xuân, vào hạ, vào thu, thậm chí còn có cặp tổ chức tiệc cưới của mình lại cho vui, hâm nóng lại tình già mà có người còn gọi là hấp hôn (chớ không phải hấp hối) hay tune up gì đó...

Mục đích chính của ba cái vụ vừa kể là để các bạn già tụi mình có dịp gặp lại nhau ăn nhậu, đấu láo, nói chuyện tào lao đẩy đưa, hát cho nhau nghe, rồi ôm nhau nhảy nhót cho nó giãn gân giãn cốt để quên là mình già! Các bà thì được dịp công khai ăn diện, ăn bận coi cũng mướt mắt lắm, đeo toàn đồ giả, đi tới đi lui ẹo qua ẹo lại thấy ứa gan...Có bà, bận áo hở lưng, hở cổ, có bà hở ngực, có bà thì củng ca củng cởn thật là hết xẩy còn hơn con gái đôi mươi nữa, rồi lại còn ỏn a ỏn ẻn chầm chậm bước lên sân khấu cất giọng oanh già hát bản tình ca “Anh cho em mùa xuân”, xem cũng rất ăn khách...Bên dưới thì từng cặp ôm nhau xà nẹo, ẹo tới ẹo lui, dìu bước lả lướt xập xa xập xình trong nhịp điệu tango...Còn ở các bàn thì thiên hạ cứ tự nhiên vừa ăn vừa nói chuyện rần rần rào rào như cái chợ vậy. Vui lắm các bạn ơi!  Có chị có giọng rất ăn micro, ăn nói ngọt ngào truyền cảm, nên thường được mời làm em xi (MC)... Mấy anh chị ca sĩ nghiệp dư, đã bỏ nhiều công phu luyện tập, nhưng đôi lúc cũng bị tổ trát, hát không ăn khớp hay ăn nhịp với nhau, làm cho thầy đờn lắc đầu xụ mặt buồn xo tiu nghỉu…Chắc lần sau, nhớ mua heo quay và hột vịt lộn để cúng tổ cho cẩn thận trước khi ra quân. Tuy nhiên theo thời gian, dám có nhiều anh chị hát ăn đứt ca sĩ thứ thiệt lắm đó nghen!. Có người nếu có dịp về Việt Nam, họ không bỏ lỡ cơ hội thuê làm CD để khi trở qua sẽ gởi biếu bạn bè cho tụi nó lé con mắt chơi... Có người xấu miệng gọi các anh các chị ca sĩ mới nầy là “ca sĩ cậu mợ”, ca sĩ sous sol, hay ca sĩ hạng B, hạng C, v.v...

Nhưng có lẽ nhờ có máu văn nghệ, nên các anh các chị, trong đó thỉnh thoảng cũng có cả vợ chồng tác giả, nói chung tuy đa số đã xấp xỉ trên dưới 6 -7 bó rồi, đã là ông nội ông ngoại, bà nội bà ngoại hết rồi, mà hãy còn rất gân, còn chịu chơi, còn yêu đời hết cỡ, vậy là cũng tốt cho sức khỏe lắm lắm rồi, phải không nhỉ?... Có người ngứa con mắt, ăn nói ba hoa chí choè, bói mò bói móc, xỏ ngọt cho rằng tuổi của các bà chị toàn là tuổi...ngọ ráo trọi! Ô hô, ai tai! Cũng tốt thôi, ăn thua, ăn mhằm gì ba cái râu ria đó! Ngựa ăn cỏ, phi đường xa, không biết mệt! Thịt ngựa mềm, ngon, bổ, ít cholesterol, chỉ có dân sành ăn mới biết thưởng thức, nhất là dân bên Âu châu... Còn bọn nhỏ ít có đứa nào dám nhào vô ăn có party cùng với tía má và các chú các bác hết.

Cuộc chơi nào cũng vậy, cũng có mặt trái mặt phải của nó hết, không biết luật ăn chịu thì phải...chịu ăn cay nuốt đắng hoặc chịu đấm ăn xôi cho được việc, hay phải biết ăn ý, khéo ăn khéo nói sao đó, v.v... rồi mới có ngày “vinh quang” được đứng dưới...ánh đèn màu sân khấu, để được nghe tiếng vỗ tay của thiên hạ, để có cái cảm giác...quá đã, quá phê, quá hạnh phúc, như là đang lâng lâng trên mây vậy?.

Dù sao thì sinh hoạt giải trí kiểu ăn chơi nầy, không hẳn là một sinh hoạt giải trí...ăn hại hay vô bổ! Vậy, hãy tiến lên bác tài ơi, dừng sang số de!

Cũng có những ngày Chúa Nhật, cả nhóm rủ nhau đi câu cá cho vui. Ra đến sông, ngồi chờ cả buổi, vừa mỏi lưng, vừa bị muỗi cắn thấy mồ, nhưng cá chỉ ăn bóng mà không có con nào chịu ăn mồi gì cả! Nghĩ lại ông bà mình rất chu đáo trong việc dạy con dạy cái, nào là cá không ăn muối cá ương, con cãi cha mẹ trăm đường con hư. Nào là ăn cây nào rào cây nấy, uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, ăn chắc mặc bền, khéo ăn thì no, khéo co thì ấm, ăn ít no dai ăn nhiều tức bụng, v.v…

Có người biết trọng lễ nghĩa, có trước có sau, nhưng cũng có những hạng người ăn cháo đá bát, ăn bớt, ăn hớt tiền công quỹ, ăn hối lộ công khai. Ăn chĩa là những ai không chịu xắp hàng như mọi người mà lại nhào vô ngang hông để giành đồ ăn. Ai ăn khỏe quá thì được gọi là ăn rỗi hay ăn như Tạ Hầu Đôn. Còn ăn yếu quá thì gọi là ăn như mèo liếm vậy. Qua bên nầy gần 30 năm rồi, mà tui vẫn thỉnh thoảng khoái ăn sang (sáng ăn khoai). Hình như củ khoai lang và củ khoai mì nó gợi lại trong tui những gì thân thương nhứt của quê hương. Khoai tây đối với tui không là gì cả!

Người ta thường nói đàn bà con gái thường ưa ăn hàng, ăn quà, ăn vặt hơn đàn ông con trai, không biết có đúng không? Nếu không phải thì thôi, xin các chị đừng bắt lỗi tui tội nghiệp.

Các cô thiếu nữ choai choai có khi bị ám ảnh bởi hình ảnh quá ư là đẹp đẽ tươi mát của các siêu sao, người mẫu đăng trong các tạp chí nên thường mơ tưởng, ước muốn được đẹp và giống như họ. Từ ý tưởng nầy các em bèn cố gắng nhịn ăn, hoặc ăn qua loa rau cải carotte, celéri để được ốm. Có em, sau khi ăn xong còn lén bố mẹ thò tay móc họng cho ói thức ăn ra. Thế là sau năm ba tháng, em trở nên ốm nhom ốm nhách thấy phát sợ, má hóp, vai rút lòi xương sườn xương sống... Bác sĩ nói đây là một loại bệnh  tinh thần hay là bệnh chán ăn (anorexia). Chữa trị căn bệnh nầy đâu phải dễ. Nghĩ cũng buồn năm phút, có người thì gia đình quá nghèo khó mà lại có quá nhiều miệng ăn nên phải chịu cảnh thiếu ăn, ăn bữa no bữa đói, bữa có bữa không. Ngược lại, kẻ khác thì quá dư thừa đồ ăn, ăn vô rồi lại móc ra khiến cha mẹ buồn rầu phát khùng phát điên luôn.

Khi lãnh lương, phải biết làm kế hoạch ăn tiêu trong tháng cho chắc ăn để khỏi bị thiếu hụt bất tử!

Trong các kỳ bầu cử, những ứng cử viên hay ăn miếng trả miếng rất sôi nổi, nhưng xét cho cùng mấy cha, mấy mẹ đều nói phét hết, hứa lèo hứa cuội cho dân chúng ăn bánh vẽ để giành ghế tổng thống mà làm cha thiên hạ. Có ăn thì có chịu, có khi lên voi thì có ngày ắt phải xuống chó mà thôi, có gì lạ đâu. Không biết ai ăn ai, ai thắng ai đây? Chờ xem!

Mua nhà mua xe thì bị người dẫn mối ăn lời, ăn tiền cò (commission), ăn tiền đầu tiền đít, ăn huê hồng 5-7%, đâu đâu cũng áp dụng nguyên tắc đầu tiên là tiền đâu.

Vợ chồng son, ít thời giờ, nên ăn cơm tháng cho nó tiện. Lỡ thiếu tiền thì năn nỉ họ cho mình ăn chịu ít ngày, chớ không nên ăn quỵt của người ta. Còn em út, bồi bếp nhà hàng thì ăn tiền bo tiền tip.

Cờ bạc là bác thằng bần, đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ, đánh đâu thua đó, lỡ cháy túi thì có bọn cho vay ăn lời cắt cổ (1 ăn 10)!...Có người cũng ăn đậm tiền bạc, nhưng rồi cũng đâu vào đấy, muốn đánh để gỡ gạc lại, nhưng không biết có...ăn nổi nữa hay không đây? 

À, còn cái nầy nữa, các bạn nào có đi du lịch Thái Lan, nhớ tìm tiệm cơm đút ăn một lần cho biết với người ta. Nhà hàng được ngăn ra làm nhiều phòng nhỏ riêng biệt, vô đó sẽ có em đút cho ăn, sướng lắm. Món nầy chắc là phe nình ông khoái lắm nhưng kẹt một cái là không tiện cho mấy bà đi theo, biết mần sao bi giờ?

Đàn ông Việtnam thường hay nói: ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật là ba cái ước mơ của họ trên đời này. Tui thấy nó không được đúng cho lắm... Ăn cơm Tàu, tui ăn hoài, món nào cũng như món nấy, toàn là mỡ dầu, bột ngọt không hà, vừa ngán mà lại cũng vừa sợ cholesterol thấy mồ tổ!... Nhà Tây, thì tui cũng đang ở từ lâu, sướng thì sướng thiệt, vì nhiều tiện nghi và rộng rãi, nhưng phải ăn ở giữ gìn cho sạch sẽ ngăn nắp trong ngoài, thứ bảy chúa nhật hai vợ chồng lu bu hì hục hút bụi, lau chùi, quét dọn trước sau trên dưới trong ngoài cũng mệt hết hơi. Thế là mất mẹ nó hết cái weekend rồi còn đâu. Nhớ lại hồi nhỏ, tui chỉ biết có ngủ ghế bố không hà, sáng ra xếp lại cái rụp dựng vô vách tường khỏe ru bà rù... Còn cái món lấy vợ Nhật, thì tui bù trất chịu thua thôi, hổng hiểu các em Nhật Bổn có khác các em VN ở chỗ nào nữa không mà sao thiên hạ có vẻ chiếu cố đến thế. Nhưng nghĩ cho cùng lúc đầu thì dù Ta dù Tây, dù Tàu hay dù Nhật em nào cũng ngọt ngào dễ thương hết, có phải vậy hông các bạn nình ông phe ta.Tối lửa tắt đèn thì nhà ngói cũng như nhà lá mà thôi. Riêng tui chủ trương không gì hơn cây nhà lá vườn, đồ sơn không hơn đồ nhà, thà ăn cơm nhà vẫn hơn là ăn cơm tiệm cho đúng với câu: “Ta dìa ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” hay “Chim quyên ăn trái nhản lòng, thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi”!

Ôi, tiếng Việt thật là vô cùng thâm thúy bao la và súc tích biết bao!

Tui vẫn còn nhớ câu “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời...” trong một bài hát do ca sĩ Anh Ngọc hát từ lâu lắm rồi... Dù ở đâu cũng vậy, mình ráng giữ gìn tiếng mẹ đẻ của mình!

Tiếng Việt còn thì dân Việt còn, nhưng đôi lúc tiếng Việt mình cũng phức tạp lắm. Khen cũng có thể là chê, là xỏ ngọt, nói vậy mà hiểu khác, nói vậy mà không phải vậy, nói xuôi phải hiểu ngược, nói có phải hiểu là không. Y ngữ bất y nghĩa. Nói xuôi nói lái, còn hiểu theo nghĩa trắng nghĩa đen gì cũng được hết.

Đó các bạn thấy không, tiếng Việt mình là thế đó, nó rất huyền diệu, phong phú ghê hồn chưa, ai muốn nói sao thì cứ nói, còn ai muốn hiểu sao thì cứ hiểu.

No hay problemo./.

Montreal, March 07, 2008
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #306 - 18. Nov 2008 , 15:22
 
Bánh chocolat mắc ... nhất thế giới !


Nghe nói có cái bánh tráng miệng mắc nhất thế giới mới chỉ .. 14 ngàn đô thế nhưng các tay đầu bếp đều muốn "chơi trội" nhau mới là sang .
Một tay bếp trưởng vừa chế chiếc bánh sô cô la mang tên "FROZZEN HAUTE CHOCOLATE" (vâng, 2 chữ "R" !!) có giá trị .. 25 ngàn đô la Mỹ .
Cho dù tiền đô có xuống giá đi chăng nữa .. 25 ngàn đô, đếm cũng mỏi miệng chớ hè  Grin


...


Chiếc bánh tráng miệng này hỗn hợp 28 loại bột ca cao trong đó 14 loại đã là những thứ cacao hiếm mắc , trên lớp kem rắc đầy bột vàng nghe bảo .. ăn khá tốt cho sức khỏe ?? !! Grin Grin


Khi cắt ra, bánh được dọn trong những chiếc chén vàng 18 carat nhưng như thế cũng chưa đủ để làm giá cao .. khách hàng còn được dùng những chiếc muỗng nạm vàng và cẩn kim cương nữa .
Dĩ nhiên, khi chịu chi 25 ngàn đô .. thực khách có quyền lấy luôn chén và muỗng để đưa về nhà làm sở hữu của mình . Điều này thì khác với thông lệ .. khi chúng ta đi ăn tiệm nhỉ....
Back to top
 
 
IP Logged
 
Đặng-Mỹ
Gold Member
*****
Offline


Đậu Xanh, U trẻ,
Thiên Nga, Nghi Nương

Posts: 14731
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #307 - 19. Nov 2008 , 13:48
 
khieulong wrote on 18. Nov 2008 , 15:22:
Bánh chocolat mắc ... nhất thế giới !


Nghe nói có cái bánh tráng miệng mắc nhất thế giới mới chỉ .. 14 ngàn đô thế nhưng các tay đầu bếp đều muốn "chơi trội" nhau mới là sang .
Một tay bếp trưởng vừa chế chiếc bánh sô cô la mang tên "FROZZEN HAUTE CHOCOLATE" (vâng, 2 chữ "R" !!) có giá trị .. 25 ngàn đô la Mỹ .
Cho dù tiền đô có xuống giá đi chăng nữa .. 25 ngàn đô, đếm cũng mỏi miệng chớ hè  Grin


...


Chiếc bánh tráng miệng này hỗn hợp 28 loại bột ca cao trong đó 14 loại đã là những thứ cacao hiếm mắc , trên lớp kem rắc đầy bột vàng nghe bảo .. ăn khá tốt cho sức khỏe ?? !! Grin Grin


Khi cắt ra, bánh được dọn trong những chiếc chén vàng 18 carat nhưng như thế cũng chưa đủ để làm giá cao .. khách hàng còn được dùng những chiếc muỗng nạm vàng và cẩn kim cương nữa .
Dĩ nhiên, khi chịu chi 25 ngàn đô .. thực khách có quyền lấy luôn chén và muỗng để đưa về nhà làm sở hữu của mình . Điều này thì khác với thông lệ .. khi chúng ta đi ăn tiệm nhỉ....


Ông chủ lò đường có khác, mới đi ăn bánh FRROZEN về đấy ạ  Cheesy
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #308 - 21. Nov 2008 , 12:09
 


...

Cần Thăm-Nom và Săn-Sóc Nhau
Lúc Còn Sống 
   


Trong văn-chương Việt, bài thơ ‘Khóc Bạn’ của Nguyễn Khuyến đã lột được sự ân-cần và quí-mến bạn hết lòng trong khi bạn còn sống. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê với tất-cả tâm-hồn và bằng tận-cùng của sự mến-thương luyến-tiếc: ‘Rượu ngon không có bạn hiền,/ Không mua không phải không tiền không mua./ Câu thơ nghĩ đắn-đo không viết,/ Viết đưa ai, ai biết mà đưa./ Giường kia treo những hững-hờ,/ Đàn kia gảy những ngẩn-ngơ tiếng đàn.’ 

Khóc như thế mới là khóc, thương như thế mới là thương! Khi sống chúng ta đối-đãi với nhau chân-tình và để ý săn-sóc nhau hết lòng thì khi bạn chết, việc khóc than, viếng đám ma, chia buồn, và an-ủi của chúng ta đối gia-đình của bạn mình mới có ý-nghĩa.

I. Sự Đời

      Ngày nay, ở hải-ngoại này, có một số người vì bận-rộn với danh quyền lợi, họ đã để cho tình-cảm gia-đình và nghĩa bằng-hữu bị nguội-lạnh phai-mờ. Khi cha mẹ, anh em, và bạn-bè  còn sống, họ chẳng chăm-nom thăm hỏi nhau mà còn lấy cớ này lý nọ để bào-chữa, chẳng hạn như: ‘bố tôi ghét tôi,  mẹ tôi thiếu bổn-phận, anh tôi hư-hỏng, em tôi không nghe lời, bạn tôi ở xa quá, tôi bận-rộn mà lại ở xa họ quá, v.v. nên tôi không đến thăm họ được!’

      Có những trường-hợp khi cha mẹ già yếu, con cái  đã tìm cách đưa các cụ vào viện dưỡng-lão. Đây cũng là việc thông-thường ở Bắc-Mỹ này. Tuy-nhiên, trừ trường-hợp giữ các cụ ở nhà sẽ gây ra nguy-hiểm đến tính-mạng cho các cụ, cho gia-đình, và cho hàng-xóm thì không kể, nếu các cụ vẫn tỉnh-táo hay người nhà còn có thể trông-nom săn-sóc được mà đưa các cụ vào sống trong ‘nursing home’ thì thật tội-nghiệp cho các cụ.

      Đã có những trường-hợp cha mẹ vì già yếu và bệnh-hoạn phải nằm trong nhà thương, con cái cả tuần mới tới thăm được một đôi lần. Các cụ nằm ‘chết khô’ không có người con nào ngó tới. Thế mà khi cha mẹ qua đời, con cái tổ-chức đám ma thật to, kẻ phúng người điếu nhộn-nhịp, khóc than kể-lể hết lời, mua loại hòm (săng) cho thật sang, xây mộ cho lớn, đắp bia cho đẹp, và làm lễ cầu-siêu cho linh-đình tốn đến cả mấy chục ngàn ‘đô-la.’ Có phải đây là cách để gột rửa sự tệ-bạc của mình đối với cha mẹ lúc còn sinh-tiền và che mắt thế-gian không?

      Có trường-hợp, người đã chết được cả tháng trời  mới thấy bản tin phân-ưu của bạn bè ở cùng một địa-phương xuất-hiện trên mặt một tuần-báo. Sự gần-gũi lui tới thăm nhau có thắm-thiết lúc còn sống không? Bản tin phân-ưu này có giá-trị gì ngoài sự mua danh lấy tiếng?

      Có người khi còn sống bị ngay cả bạn thân của họ chê là kẻ có thủ-đoạn, thế mà khi chết, họ cũng được bè-bạn đăng lời phân-ưu. Vì ‘nghĩa tử là nghĩa tận,’ người ta thường tha-thứ và rộng-lượng với người chết nên cố nhờ đăng vài lời phân-ưu để được tiếng là cao-thượng. Đôi khi người ta đăng lời phân-ưu là để đạt một mục-đích khác nữa. Thật là một trò hề và giả đạo-đức!

      Có người khó tính và chán-chường cho sự giả-dối của loại người nói ở trên đã thốt ra một câu thật chí-lý giống như lời Chúa Jesus đã viết trên cát trong truyện ‘Ném Đá’: ‘Bọn Giả-Dối!’

      Ở Bắc-Mỹ này, tình gia-đình và bè-bạn không được thắm-thiết như ở Á-Đông ta nên người ta đã tự lo cho cái chết của họ một cách thật đầy-đủ, chẳng hạn như mua bảo-hiểm nhân thọ (Life Insurance) để khi chết gia-đình có tiền sinh sống và trang-trải ma-chay, nào đóng tiền trước cho nhà-quàn (funeral home) để họ lo đám ma của mình (prepaid funeral) mà khỏi cần nhờ đến ai. Thật là tiện-lợi hết chỗ nói.

   Khi sống, người Bắc-Mỹ đã được hưởng mọi thứ tự-do thật xứng-đáng với nhân-phẩm con người. Khi chết họ cũng thoải-mái vì không phải lo cảnh ‘xẩy đàn tan nghé’ hay làm phiền-lụy ai.

      Ngoài ra, vì người dân Bắc-Mỹ có đóng thuế và đóng tiền hưu nên chính-phủ có trách-nhiệm lo đám ma cho người dân. Chính vì thế, những người dân nghèo đã có cơ-quan xã-hội (social services) ở địa-phương lo đầy-đủ cả lúc sống cũng như khi chết.  Khi nhà có người nằm xuống, nếu thân-nhân nộp đơn xin tiền trợ-cấp để lo đám tang thì cơ-quan xã-hội sẽ cấp cho họ một khoản tiền đủ để chi-dụng trong việc này.

      Đối với những người có đi làm và có đóng tiền hưu thì khi chết họ được hưởng tiền tử-tuất, tối-đa khoảng 3 ngàn đồng tùy theo số năm đi làm và số tiền đóng cho quỹ hưu-trí. Tiền tử-tuất này do cơ-quan ‘National Health & Welfare, Income Security Programs’ cấp nếu thân-nhân hay người đại-diện nhà-quàn đứng tên xin.   

      Ở Bắc-Mỹ này không ai phải bó chiếu đem chôn một cách âm-thầm như người dân sống dưới chế độ Cộng-Sản tại Việt Nam. Mặc-dầu người dân được bọn Cộng-Sản tôn-vinh là ‘nhân-dân làm chủ,’ nhưng trong thực-tế, người dân bị bọn  Việt-Cộng đối-xử rất tệ, thậm-chí không bằng con vật ở Bắc-Mỹ này.

II. Tại Sao Người Ta Phải Tổ-Chức Đám-Ma Cho Linh-Đình?


      Có đám ma được gọi là quốc-táng do triều-đình hay chính-phủ đứng ra lo. Lá cờ quốc-gia được phủ lên quan-tài trong khi đưa đám. Đây là nghi-lễ chôn-cất của chính-phủ dành cho những người chết có công đánh trận hay tử-nạn trong khi phục-vụ quốc-gia. Ngoài ra, lá cờ của quốc-gia còn được kéo lên nửa chừng cột cờ ở khắp nơi trong nước, gọi là cờ rũ hay cờ tang. Đây là biểu-hiệu để tang người quá-cố đã có công đối với dân-tộc.
 
      Có đám ma làm theo nghi-lễ tôn-giáo hay phong-tục cổ-truyền để tôn-vinh người chết về công-lao của họ đối với đạo-pháp và dân-tộc.

      Có đám ma được tổ-chức linh-đình và trọng-thể do dân-chúng và các đoàn-thể đứng ra tổ-chức để tỏ lòng nhớ ơn người chết đã vì họ mà hy-sinh, và luôn thể để biểu-dương thế-lực phản-đối nhà cầm quyền đương-thời đã gây ra cái chết này.

      Có những đám ma rất linh-đình do thân-nhân, bằng-hữu, và những người mến-mộ tổ-chức dành cho nhà báo, kịch-sĩ, ca-sĩ, nhà thơ, nhà văn, họa-sĩ, cầu-thủ, võ-sĩ, và nhà giáo, v.v. Trong đám ma này người ta đọc điếu-văn (bài văn đọc trong đám tang để tỏ lòng nhớ ơn và thương-tiếc người quá-cố) phát-biểu những kỷ-niệm đã có với người chết, và nói lên những công-đức của người quá-cố trong lúc còn sinh-tiền, v.v.

      Sau đám ma, người ta còn tổ-chức các buổi cầu-nguyện và các buổi tưởng-niệm để vinh-danh công-đức người quá-cố cho mọi người lấy đó làm gương.

      Có những đám ma của loại người giầu có để khoe của, khoe danh, khoe sang vì quen biết các ông to bà lớn, và để dễ-dàng cho con cháu sinh sống và làm ăn sau này.

III. Tại Sao Người Ta Hay Tỏ Ra Quan-Tâm và Ân-Cần Đối Với Một Người Khi Họ Sắp Chết và Sau Khi Họ Chết Hơn Lúc Còn Sống.


       Thường thì vào dịp Tết, lúc năm cùng tháng tận, người ta hay rộng-lượng với nhau. Họ bỏ đi các dị-biệt (different) cùng các xích-mích đã có để cùng nhau tổ-chức Tết để đón mừng xuân và hy-vọng một tương-lai tốt-đẹp hơn trong năm mới. Cũng trong chiều-hướng này, khi biết tin thân-nhân và bạn-bè hấp-hối hay đã qua đời mà trước đó có khi cả hằng năm chẳng bao giờ họ liên-lạc với nhau, người ta nghĩ rằng lúc này họ nên bỏ ra chút thì-giờ để đến thăm người hấp-hối, nhìn mặt người chết một lần chót, hay gửi đăng đôi lời chia buồn trên báo-chí để chuộc lại thái-độ lạnh-nhạt trước kia. Đây là một cử-chỉ đẹp, biết ăn-năn hối-cải, và độ-lượng nhưng ý-nghĩa chẳng có bao nhiêu vì lúc sống đã chẳng ra gì thì còn kể chi khi đã chết.

  Có trường-hợp người ta đi phúng-điếu là để trả nợ vì trước đây người mà nay qua đời hay bà con của người này đã đi phúng-điếu thân-nhân của họ. Trong một số trường-hợp khác, có những người cùng làm chung một sở hay ở cùng một nơi với nhau; khi ở cơ-quan hay hàng-xóm có người qua-đời, bạn-bè và người hàng-xóm rủ họ đi phúng-điếu thì họ đi, chứ chưa chắc họ thực-sự muốn đi. Danh-sách những người đăng trong mục tin phân-ưu cũng vậy; có nhiều trường-hợp, bạn-bè hay tòa-soạn tưởng mình chơi thân với người quá-cố nên họ tự-động thêm tên mình vào.

      Một số người đã đối-đãi tệ-hại với bạn-bè, họ tưởng rằng nói vài lời an-ủi với người hấp-hối coi như chuộc lại cả một thời-gian dài không một lần thăm viếng hỏi-han. Họ đến phúng-điếu và chia buồn với tang-quyến chỉ là tỏ thiện-chí làm lành và gột-rửa sự lạnh-nhạt hay hiềm-khích với gia-đình người quá-cố trước đây. Đây cũng là một việc tốt nhưng chưa đủ.

      Có nhiều trường-hợp, con cái tệ-bạc với cha mẹ và đối với cha mẹ không ra gì, nhưng khi cha mẹ sắp qua đời, họ quây-quần bên giường bệnh lúc cha mẹ hấp-hối để tỏ ra mình lo-lắng và thương-tiếc cha mẹ một cách tự-nhiên phát-sinh tự đáy lòng. Ngoài ra, họ còn quây-quần bên giường bệnh lúc cha mẹ hấp-hối với mục-đích để xem cha mẹ có dặn-dò (trối) cho mình tiền của gì không.

      Những người con có hiếu thường tổ-chức đám ma cho cha mẹ rất linh-đình cốt để tỏ lòng hiếu-kính một cách chân-tình. Nhưng cũng có trường-hợp, các con làm đám tang cho cha mẹ một cách linh-đình để gột-rửa sự bạc-bẽo của họ đối với cha mẹ trước đây.

      Đối với những người đến phúng-điếu, có nhiều trường-hợp người ta đến phúng-điếu chia buồn với tấm-lòng thành. Thái-độ của họ nói lên tấm-lòng sẵn-sàng giúp-đỡ cho tang-gia bất-cứ lúc nào và bất-cứ cái gì khi cần đến. Đời vẫn có những người tốt thực-sự và vô vị-lợi. Có người đến phúng-điếu vì họ đã từng ngưỡng-mộ và tôn-kính người quá-cố mà không có dịp nào được gặp tận mặt hay nói trực-tiếp được một lời trong lúc người ấy còn sống. Có trường-hợp, người ta thân nhau nhưng lười liên-lạc nên khi nghe tin nhau bị bệnh hay qua đời họ đã cố-gắng đến an-ủi hay chia buồn.

      Một số người thân nhau, họ không để ý đến nhau khi còn sống và cho đây là sự bình-thường. Trường-hợp này cũng giống như người có tự-do sẵn rồi thì không thấy tự-do là quan-trọng. Đến khi mất tự-do, họ mới thấy tự-do là quí. Đối với mười ngón tay của ta, khi bình-thường ta không thấy ngón nào là ngón quan-trọng. Nếu vì lý-do gì mà bị cụt đi một ngón, ta mới thấy thiếu-thốn và bất-tiện như thế nào. Chính vì lý-do này người ta mới ân-cần thăm nhau khi bị bệnh, hay thương-tiếc nhau vô-cùng khi đã mất nhau.

      Nói chung, đám ma có linh-đình hay không, lễ cầu-siêu có lớn hay không, và phần mộ có to và đẹp-đẽ hay không, tất-cả đều dành cho người sống và đều làm rạng-rỡ cho người còn sống. Chết là hết. Sau này có mâm cao cỗ đầy hay không cũng chỉ là dành cho người sống. Việc đối-đãi với nhau khi còn sống mới là quan-trong. Cần đùm-bọc thương-yêu và săn-sóc nhau lúc sống chứ đừng để đến khi thân-nhân hay bằng-hữu chết mới tỏ lòng thương-tiếc.

      Nhiều người tin rằng cần tụng-niệm Phật A-Di-Đà để cầu xin vãng-sanh (qua kiếp trần-gian) về cõi Tâythanks.gifhương Cực-Lạc. Thật ra Cõi Tâythanks.gifhương Cực-Lạc đã ở tại trong lòng mình. Không có đất Phật ở đâu bên ngoài. Lục Tổ Huệ-Năng đã dạy: ‘Kẻ mê-muội thì niệm Phật cầu vãng-sanh về cõi bên kia, người tỉnh-ngộ chỉ làm cho tâm mình được thanh-tịnh. Người phàm-phu không hiểu rõ tánh Phật của mình, chẳng biết rằng Tịnh-Thổ hay Tịnh-Độ, tức là đất Phật, đã có sẵn  nơi tâm mình và ngay tại nơi mình đang ở, nên cứ lo cầu Đông nguyện Tây. Còn người đã giác-ngộ rồi thì biết rằng đâu đâu cũng là Tịnh-Thổ, tức là chỗ nào cũng có Phật ở đó cả.’ Con người khi còn sống nên giữ tâm mình cho thanh-tịnh để biết bổn-tâm nhận rõ bổn-tánh thì sẽ giác-ngộ thành Phật, chẳng cần phải cầu vãng-sanh làm gì vì lòng ta là đất của Phật rồi.

      Hãy trân-trọng thời-gian được sống gần nhau, hãy tu-tâm dưỡng-tánh khi mình còn sống chứ đừng cầu vãng-sanh về ‘cõi Tây Phương Cực Lạc.’
IV. Quan-Niệm Của Một Số Người Về Việc Ma-Chay

      Chính vì thấy sự phiền-hà khi thân-nhân phải tổ-chức đám ma mà rất nhiều người khi sắp chết họ đã trối lại là không nên làm đám ma linh-đình, miễn phúng-điếu, miễn thăm-viếng. Họ không muốn làm phiền ai và chỉ yêu-cầu thân-nhân làm đám ma thật đơn-giản mà thôi.

      Một số người thì chú-trọng vào việc ăn-ở tốt với nhau lúc còn sống, sẵn-sàng giúp-đỡ nhau, và sẵn-sàng lo sống chết cho nhau trong mọi hoàn-cảnh. Sống sao cho tình-nghĩa vẹn-toàn để khi không còn có nhau nữa, họ không có gì phải hối-tiếc. Đám ma lớn nhỏ không thành vấn-đề nữa. Phúng-điếu hay không cũng vậy. Họ không vì người đã chết mà làm phiền-hà người khác hay để cho người ta kiếm ăn trên xác chết của mình. Một số người khác tự lo trước cho cái chết của mình để khi nằm xuống họ không làm phiền người nhà.

      Có những người, vì lợi-ích chung của nhân-loại, họ đã ký giấy hiến thân-xác mình sau khi chết cho các cơ-quan nghiên-cứu để làm phương-tiện cho sinh-viên trường thuốc học-hỏi. Ma-chay trong trường-hợp này không thành vấn-đề nữa. Không còn phải sợ cảnh ‘ma chê cưới trách.’  Đây là một hành-động thật là cao-thượng và vị-tha. Thật đáng được thán-phục! Có những người thực-tế hơn đã làm điếu-văn cho cha mẹ, vợ chồng, hay bạn-bè ngay khi những người này còn sống (sinh-điếu). Làm ‘sinh-điếu’ kiểu này thật là có ý-nghĩa vì khi còn sống mà được nghe thân-nhân hay bằng-hữu khóc mình, ta mới thấy cảm-động và thú-vị vô-cùng. Có những nhà thơ đã làm điếu-văn khóc vợ lúc vợ còn đang chung sống với mình. Sau khi nghe bài sinh-điếu, có bà đã khóc mùi-mẫn vì sung-sướng. Thật là cảm-động một cách chân-thành đầy ý-nghĩa và tuyệt-vời.

V. Kết-Luận


      Nếu khi chúng ta còn sống mà không thăm-nom và săn-sóc nhau thì những hành-động làm ma-chay (lễ tống-táng người chết) cho linh-đình, phúng-điếu, và phân-ưu dành cho nhau khi có người qua đời, tuy có cần-thiết, nhưng vẫn mang tính-cách lừa-dối người và lừa-dối chính bản-thân ta, nó không có một chút ý-nghĩa  nào cả.

Hãy thăm-nom, săn-sóc, và giúp-đỡ nhau lúc còn sống mới thật là có ý-nghĩa và hữu-ích. Có như thế thì việc làm ma-chay, phúng-điếu, và phân-ưu mới có ý-nghĩa. Chết là hết. Ta nên nhớ rằng tất-cả những gì người sống làm cho thân-nhân hay bạn-bè đã qua đời chỉ vì những người còn sống và giúp cho những người sống yên lòng mà thôi.

   Tuy-nhiên, ta vẫn phải làm đám tang cho người qua đời, nhưng chỉ nên làm giản-tiện và làm những gì cần-thiết mà thôi

Khải-Chính Phạm Kim-Thư
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #309 - 23. Nov 2008 , 11:22
 
Cái hẹn đầu


Lần đầu tiên được lệnh bố xuất-ngoại để giặt tiền, Nông Công-tử “cua” được cô bồ đi ăn tối.  
Ðể tạo cảm-giác ban đầu thật mạnh, cậu Nông đưa nàng vào một nhà hàng Ý sang-trọng.
Sau khi nhấm-nháp tí ruợu khai-vị thật đắt tiền, cậu chỉ vào hàng cuối cùng trên tấm thực đơn, bảo:

- Dọn cho chúng tôi món Du-xe-be ... Xì pom... à... da... lúc-ki.

Cậu hầu bàn lắc đầu từ tốn:

- Thưa ông, không thể được ạ!

Nông công-tử dựng ngược đôi mày, hỏi gắt:

- Sao lại không?

Rồi cậu vỗ vào chỗ để ví tiền:

- Sợ trả không nổi hả? Nói cho biết, tôi mua cả cái nhà hàng này bây giờ đấy!

Cậu hầu bàn vội giải-thích:

- Thưa ông, không thể được vì đó là ... ông chủ của tôi.
Trong đó nói: “Kính chúc quí khách ngon miệng và nhận nơi đây lòng cảm-tạ của chúng tôi. Giuseppe Spomdalucci.”


Back to top
« Last Edit: 23. Nov 2008 , 11:22 by khieulong »  
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #310 - 27. Nov 2008 , 10:49
 


...

LỄ TẠ ƠN TẠI HOA KỲ

Giao chỉ - San Jose -2008, Nov 26, 2008
 


Quả thực người Mỹ đã có đầy đủ lý do để giữ gìn truyền thống với ngày lễ tạ ơn vào tháng 11 mỗi năm.

Lịch sử ghi rằng vào năm 1620 có một nhóm gia đình người Anh theo Tin Lành đã đi tìm đất mới để sống đời tự do tín ngưỡng.

Con tàu Mayflower nổi danh vượt Ðại Tây Dương chở di dân với các niềm tin giáo lý khác nhau đến vùng Plymouth Rock của tiểu bang Massachusetts bây giờ.. Nhóm gia đình người Anh chỉ có hơn ba chục, số còn lại là phần đông thủy thủ đoàn. Tổng sốÔ 102 người.

Ðây là con tàu chính thức của di dân vì gồm cả gia đình vợ con. Trải qua một năm đầu với mùa đông khắc nghiệt, không đủ thực phẩm, không có đủ quần áo, không có nơi cư trú nên di dân đã phải chôn cất 46 người. Qua năm sau, mùa gặt 1621 thành công, di dân cùng dân da đỏ bản xứ tổ chức tiệc mừng lễ tạ ơn trên đất Mỹ.

Ðó là ngày lễ hội đầu tiên tại Mỹ Châu và truyền thống còn mãi đến ngày nay. Không dựa theo 1 đạo giáo nào, lễ tạ ơn trải qua gần 400 năm đã thành ngày hội của cả quốc gia cảm ơn trời đất cho mọi người đủ cơm áo để sinh tồn.

Trong bữa tiệc lễ tạ ơn năm đầu tiên di dân đã ăn thịt già rừng, ăn bánh làm bằng trái bí đỏ và thực đơn này đã trở nên món ăn truyền thống ngày lễ hội của Mỹ quốc cho tới ngày nay.

Tuy nhiên để trở thành 1 ngày quốc lễ chính thức thì phải tới năm 1863, vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ là ông Lincoln mới đề nghị vào tháng 11 và tổng thống Roosevelt ban hành luật. Từ đó Lễ Tạ Ơn được chính phủ công nhận vào ngày thứ năm của tuần lễ thứ tư tháng 11 hàng năm.

Bây giờ Hiệp Chủng Quốc đã trở thành quê hương mới của các sắc dân. Từ 102 di dân trên tàu “Hoa Tháng Năm,” Hoa Kỳ đã có 300 triệu dân và trở thành quốc gia hùng cường nhất thế giới. Nước Mỹ có tiềm lực lớn hơn tất cả quốc gia Âu Châu gộp lại. Và điểm đặc biệt nhất, Hoa Kỳ chính là miền đất của cơ hội.

Hãy đưa ra một thí dụ cụ thể tại quốc gia dù tiến bộ như Nhật Bản nhưng không bao giờ một di dân nước ngoài có thể trở thành triệu phú, chính khách, khoa học gia, hay tài tử tại đất nước của Thiên Hoàng. Nhưng tại Mỹ thì bất cứ chuyện gì cũng có thể xẩy ra cho người ngoại nhập.

Một tài tử điện ảnh gốc Áo là ông Arnold đã trở thành thống đốc California. Ngoại trưởng Hoa Kỳ vốn là một người da đen sinh trưởng ở Hải Ðảo thuộc Mỹ. Tướng Colin Powell trước khi làm ngoại trưởng đã từng là tham mưu trưởng liên quân. Mới đây khi ông Powell đệ đơn từ chức, tổng thống Bush đã đưa bà Condoleezza Rice lên kế nhiệm. Báo chí thân mật gọi bà là “Condi.” Cần phải biết là chức vụ ngoại trưởng ởợ vị trí quan trọng thứ 4 trong guồng máy hành pháp Hoa Kỳ. Nếu xảy ra biến động thì người thay thế tổng thống là phó tổng thống kiêm chủ tịch thượng viện. Người thứ ba là chủ tịch Hạ Viện và rồi đến ngoại trưởng Hoa Kỳ. Vị trí thứ 4 của bậc thang trong quốc gia đầy quyền lực trên thế giớiờ nằm trong tay một phụ nữ da đen độc thân 50 tuổi đã từng nổi danh trong giới khoa bảng tại đại học Stanford California.

Trước khi được mời về làm cố vấn an ninh Bạch Cung, nàng Condi da đen đã làm khoa trưởng đại học danh tiếng nhất thế giới với ngân sách 1 tỷ rưỡi mỹ kim, 1400 giáo sư với nhiều tước hiệu Nobel dạy 14,000 sinh viên ưu tú trên toàn thế giới. Không phải vì là bà Rice có khả năng nói tiếng Nga với tổng thống Putin mà bởi vì bà may mắn sống ở miền đất Hứa nơi đã tạo cơ hội cho tất cả mọi người. Cho đến mùa lễ tạ ơn 2008 thì một huyền thoại đã thành sự thực. Một người con của di dân da đen, thượng nghị sĩ Obama đã được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ.

Không nước nào trên thế giới có thể dành cho người dân những cơ hội như thế.

Là quốc gia được thành lập và xây dựng bởi các di dân, tiền nhân của Mỹ quốc đã viết nên các bản văn bất hủ là hiến pháp và tu chính án Dân Quyền.

Ðạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau:

“Bất cứ ai tỵ nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.”

Như vậy chúng ta hiểu một cách giản dị là nếu đã đến Mỹ thì sẽ có cơ hội trở thành người Mỹ.

Căn cứ vào điều khoản của luật 1790, một đạo luật khác đã ra đời năm 1975 có tên là Indochina Migration and Refugee Act.

Sau đây là đoạn văn năm 75 mà di dân Việt Nam cần đọc lại trong mùa tạ ơn năm 2008.

“Tổng thống Hoa Kỳ sẽ làm bất cứ điều gì để mở rộng cánh cửa đón người tỵ nạn đến từ 3 quốc gia Ðông Dương. Các viên chức trách nhiệm tại Mỹ sẽ đưa ra tất cả mọi phương tiện để giúp cho người dân tỵ nạn định cư. Phải nỗ lực làm giảm những đau khổ kinh hoàng của người tỵ nạn đến từ Ðông Nam Á.”

Vào tháng 7-1977 sau 2 năm đầu giúp đỡ người tỵ nạn Ðông Dương di tản đợt 75, Hoa Kỳ ban hành luật gia hạn việc cứu trợ về tài chánh, y tế, và dịch vụ.

Tháng 3-1980 Mỹ ban hành thêm luật quy chế tỵ nạn vĩnh viễn và đề ra một chính sách tỵ nạn áp dụng chính thức tại Mỹ. Suốt 33 năm qua, khi nhiều khi ít, khi khó khăn, khi dễ dàng, Hoa Kỳ đã dành ra những cấp khoản lớn lao cho người Việt đến Mỹ để trở thành 1 cộng đồng di dân đông đảo nhất trong cuối thế kỷ thứ 20.

Trong buổi bình minh của lịch sử Hoa Kỳ lập quốc, di dân vượt Ðại Tây Dương đến Mỹ Châu đa số gốc Âu Châu. Sau đó, Thái Bình Dương đưa đến Mỹ dân Tầu và Nhật.

Từ bao lâu nay hoàn toàn không có người Việt đến Mỹ cho đến khi gặp cơn hồng thủy 1975. Truyền thống của dòng giống Việt tộc thường không khích lệ con đường tha phương cầu thực. Vì vậy ngoại trừ số nhỏ qua lập nghiệp bên Miên, Lào và Thái, phần lớn người Việt đều ở lại với quê hương ven biển Nam Hải.

Khi miền Nam xụp đổ tháng 4-1975 đợt di tản đầu tiên của người Việt đã mở ra một đầu cầu quan trọng cho lịch sử di dân từ Châu Á. Những chuyến đi vô cùng mạo hiểm của thuyền nhân đã làm thành thiên anh hùng ca của con đường đi tìm tự do với hàng ngàn con tàu Mayflower của dân Việt đã ra đi không bao giờ đến được miền đất Hứa.

Cũng nhân dịp ghi dấu 30 năm định cư tại Hoa Kỳ 1975-2005. Bảo tàng viện do cơ quan IRCC,Inc. gây dựng đã hoàn thành hai tác phẩm. Ðóng lại con tàu Vượt biên có tên là Tân Phát đúng kích thước và chi tiết con tàu thật. Ðồng thời họa sĩ thực hiện bức hình sơn dầu vĩ đại cao 10 feet và dài 15 feet mô tả con tàu Tân Phát đang lướt sóng trên biển Ðông.

Ðây là con tàu thực sự đã đưa được nhóm gia đình Việt Nam vượt biển thành công hiện định cư tại Úc Châu và Bắc Mỹ.

Những người di dân Việt Nam định cư tại Hoa Kỳ trong đợt đầu khi xây dựng cuộc đời đã ăn những con gà Tây cùng với các gia đình bảo trợ, với các họ Ðạo trên 50 tiểu bang Hoa Kỳ.

Rồi những bức hình và những lá thơ gửi về cho thân quyến tại quê nhà đã trải qua suốt 10 năm khốn khổ sau 75. Miền Bắc là nơi giam giữ tù cải tạo. Miền Nam là những khu kinh tế mới.

Khi di dân Việt Nam trải qua 10 lần dự tiệc tạ ơn tại Hoa Kỳ thì những thùng quà gửi về đã làm cho cả đất nước hồi sinh. Từ cây kim sợi chỉ, từ chai thuốc tây đến thước vải. Những tờ giấy Mỹ Kim nằm trong hộp thuốc đánh răng với lời thư dặn dò đầy nước mắt. Thư viết rằng thuốc đánh răng này tốt lắm. Cố sức giữ lại mà dùng, đừng bán đi. Vỏ cũng xài được, đừng vất đi. Người ở lại đã phải nát óc vò đầu để tìm ra được ý nghĩa mật thư là trong túp thuốc có tiền. Có khi lá thư viết rằng nếu đói quá thì bán vải, bán đá lửa, bán bút bi đi mà ăn, nhưng cố giữ lấy cái thùng giấy đựng quà mà dùng. Hiểu được ý nghĩa lá thơ, người Saigòn phải lần mò tháo hết vỏ thùng để tìm thấy giấy 100 đô giữa hai lớp bìa cứng

Và cứ như thế dưới nhiều hình thức những con gà Tây của lễ tạ ơn Hoa Kỳ đã về đến Việt Nam. Quà và tiền gửi về thể hiện cho hình ảnh vật chất đầy đủ ở phía chân trời và đồng thời cũng là hình ảnh cuộc sống tự do rực rỡ nở hoa với chan hòa ánh sáng.

Và dù 5 ăn 5 thua con tàu Mayflower đã ra đi từ khắp miền duyên hải Việt Nam có khi chỉ là những chiếc ghe nhỏ bé mong manh.

Người Việt đã vì nhiều lý do để ra đi suốt bao nhiêu năm qua. Và danh từ Boat People trong tự điển thế giới đã không còn cùng ý nghĩa xưa cũ để chỉ những người sinh sống ở trên thuyền.

Boat People ngày nay có nghĩa là người Việt đã đi tìm tự do bằng thuyền vượt biển Nam Hải.

Lịch sử các cuộc di dân của nhân loại đã đưa đến nhận định rằng “Ta không thể lựa chọn sinh quán, nhưng ta có thể chọn lựa để sống ở miền đất mà chúng ta yêu quý.”

(You cannot choose the land you birth, but you can choose the land you love)

Thực đúng như vậy, chúng ta đã sinh ra đời trên quê hương không hề có sự lựa chọn nhưng nếu phải trả giá với sự sống chết thì chúng ta vẫn có cơ may lựa chọn nơi sinh sống.

Vì vậy không phải là chỉ người Mỹ hậu duệ của con tàu Hoa Tháng Năm đến từ Ðại Tây Dương mới có quyền ăn gà Tây tháng 11.

Dân Việt tỵ nạn cũng có đủ tư cách để cúng trời đất vào mùa lễ hội tạ ơn hàng năm. Xem chuyện Do Thái và Palestine tranh chấp đẫm máu ở miền Trung Ðông để biết rằng cả hai dân tộc này đã khốn khổ biết chừng nào. Năm ngàn năm trước người Do Thái vì lý do tôn giáo đã bỏ nước ra đi đến bốn phương trời. Họ thành công trên khắp thế giới nhưng vẫn hướng về đất thánh Jerusalem đầy huyền thoại. Sau khi bị Ðức Quốc Xã bức hại dã man tại Âu Châu, khi đại chiến kết thúc, thế giới mở đường cho Do Thái trở về quê xưa dựng nước.

Bây giờ lại đến lượt người dân của đất Palestime phải ra di. Và cuộc đấu tranh giành đất giữa 2 mối cựu thù vì niềm tin tôn giáo bắt đầu. Hận thù chất ngất đến nỗi có hàng ngàn người quyết đổi mạng sống để giết hết sắc dân thù nghịch gồm cả đàn bà và trẻ con vô tội.

Mối hận thù truyền kiếp đã đưa đẩy Hoa Kỳ và cả thế giới vào cơn Hồng Thủy của cuộc chiến chống khủng bố hiện nay.

Ðã từ lâu miền Trung Ðông không hề có những ngày lễ tạ ơn với cuộc sống bình yên. Và cũng không có triển vọng sẽ có một tương lai bình yên ở một nơi đầy dầu hỏa được gọi là vàng đen trong lòng đất.

Người Việt tại Hoa Kỳ đang sống bình yên ở miền đất cơ hội nhưng điều quan trọng hơn hết là chúng ta có dịp mở rộng viễn kiến để nhìn ra thế giới đầy thảm họa và biến động.

Với các tin tức, với các hình ảnh ghi nhận được, mỗi công dân Hoa Kỳ dù là bổn sinh hay ngoại nhập đều dễ dàng trở thành người dân có tri thức, có sự hiểu biết, có tấm lòng rộng lượng, có đức tính tha thứ, để sống với nhau tử tế. Ðặc biệt có đủ hạnh phúc căn bản với cơm no áo ấm và tự do để cùng nhau dâng lễ tạ ơn với các niềm tin tôn giáo khác nhau.

Nhân dịp Thanksgiving, xin gửi đến quý vị lời chúc mừng một lễ tạ ơn đầy hạnh phúc.

Giao Chỉ, San Jose
Back to top
 
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #311 - 29. Nov 2008 , 09:37
 


...

Thơ vui Nhất vợ nhì giời !


Vợ là hơi ấm bếp lò
Vợ là nhường nhịn so đo làm gì
Vợ là giám khảo phòng thi
Mỗi khi về muộn , mỗi khi xa nhà
Vợ là trưởng ban giải hoà
Giữa hai thái cực cha và các con
Vợ là cơm dẻo canh ngon
Vợ là chỗ dựa thuở còn hàn vi
Vợ là sóng gió bất kỳ
Lúc thì như cọp , lúc thì như nai
Vợ là ánh nắng ban mai
Vợ là một nửa thứ hai phải tìm
Vợ là máu chảy về tim
Vợ là rượu ngọt môi tìm về môi
Vợ là gió mát khí trời
Vợ là san sẻ cho vơi nỗi buồn
Vợ giận như người mất hồn
Vợ cười tưởng hạn gặp cơn mưa rào
Vợ vui sung sướng làm sao
Vợ ghen sư tử vái chào từ xa
Vợ là thế giới bao la
Vợ là tất cả nên ta phải chiều !
Vợ  mình  không  phải  nàng Kiều
Rượu tình phải  uống như  liều  thuốc tiên


Siu Tầm

Back to top
 
 
IP Logged
 
anh_thu_Tran
Gold Member
*****
Offline



Posts: 3636
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #312 - 29. Nov 2008 , 14:45
 
macco wrote on 29. Nov 2008 , 09:37:


...

Thơ vui Nhất vợ nhì giời !


Vợ là hơi ấm bếp lò
Vợ là nhường nhịn so đo làm gì
Vợ là giám khảo phòng thi
Mỗi khi về muộn , mỗi khi xa nhà
Vợ là trưởng ban giải hoà
Giữa hai thái cực cha và các con
Vợ là cơm dẻo canh ngon
Vợ là chỗ dựa thuở còn hàn vi
Vợ là sóng gió bất kỳ
Lúc thì như cọp , lúc thì như nai
Vợ là ánh nắng ban mai
Vợ là một nửa thứ hai phải tìm
Vợ là máu chảy về tim
Vợ là rượu ngọt môi tìm về môi
Vợ là gió mát khí trời
Vợ là san sẻ cho vơi nỗi buồn
Vợ giận như người mất hồn
Vợ cười tưởng hạn gặp cơn mưa rào
Vợ vui sung sướng làm sao
Vợ ghen sư tử vái chào từ xa
Vợ là thế giới bao la
Vợ là tất cả nên ta phải chiều !
Vợ  mình  không  phải  nàng Kiều
Rượu tình phải  uống như  liều  thuốc tiên


Siu Tầm


   Bài thơ này sao mà thấm ý thế  Cheesy Wink Cám ơn chị Mắc cở nhé.
Back to top
 
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #313 - 01. Dec 2008 , 18:37
 
HiHiHi
Củm ơn chị Anh Thư khuyến khích em gái !!! Nữaaa nè...... Grin Grin Grin

Ngày Xưa


Ngày xưa Bu nó hiền lành
Tóc dài còn thoảng hoa chanh vườn nhà
Từ ngày Bu nó đi xa
Mùi chanh Bu nó quăng ra lại vườn

Chỉ còn giữ một mùi hương
Chanel Bu nó vẫn thường xịt, thoa
Ðôi chân lúc trước ở nhà
Móng còn hoen ố, thoảng pha mầu bùn

Bây giờ xanh đỏ tùm lum
Móng chân, tay, tóc một chùm như nhau
Mỗi nơi mỗi thứ một mầu
Chân quê Bu nó vất đâu mất rồi

Lái xe Bu nó chỉ ngồi
Loại xe Lếch Xợt ghế đôi mui trần
Hột xoàn đeo cỡ ngón chân
Một mình mua sắm chẳng cần hỏi anh

Nghe bà Hanh Phước dỗ dành
Trái chanh Bu nó bơm thành trái cam
Chẻ môi,nâng mũi,sửa cằm
Bây giờ Bu nó khác trăm vạn lần

Từ ngày xuất ngoại trao thân
Hương đồng gío nội quẳng dần đi đâu
             


Qúy Bùi


Back to top
« Last Edit: 01. Dec 2008 , 18:38 by macco »  
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #314 - 01. Dec 2008 , 18:49
 
...

            
EM  ÐI  SHOPPING
                                            

                      Hôm qua đi shopping  về,
           Em mang mấy túi Macy's khoe  chồng .
                  Ðây là cái áo coat lông ,
           Giá sale ngàn chín rẻ không hả  mình ?
                  Còn đây cái váy da  xinh ,
           Mặc vào em giống minh tinh Hoa Kỳ ,
                  Và đây cái nhẫn chín ly ,
          Hạt trong nước lý đẹp ghê hả mình  ?
                 Em ơi ! dừng lại cho nhanh ,
         Máu không lên óc ,tim anh sắp ngừng ,
                 Sang đây anh vẫn ngaị ngùng ,
         Mình là tỵ nạn xin đừng theo Tây
            Tóc huyền buông xõa lâu nay ,
         Sao em cắt ngắn đổi thay nâu vàng ,
                 Nói ra lại bảo chồng gàn ,
         Em thay đổi quá chỉ làm khổ anh  !
                 Hoa chanh nở giữa vườn chanh ,
         Thầy u mình với chúng mình chân quê,
                Mai sau đi shopping về ,
        Dấu vào Closet đừng khoe với chồng ,
                Kẻo không nó lại tăng xông ,
        Thận suy,gan yếu ,còn trông mong gì!

Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 19 20 21 22 23 ... 93
Send Topic In ra