Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Chợ Chiều  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 35 36 37 38 39 ... 93
Send Topic In ra
Chợ Chiều (Read 100218 times)
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #540 - 12. Nov 2013 , 10:15
 
Ngố wrote on 11. Nov 2013 , 17:53:
Woa bi giờ đã wua tháng Sáu lâu rồi ha Ngộ...Bi giờ là tháng 11 Ngộ muốn có tháng 11 thì cũng có tháng 11 ngay đó mà....không có tháng 11 thì có số 11 cũng okdokie đâu có trăng sao !


Anh Sháu wơi, chửn bị bài thơ tháng 12 đi nhang, hihihi...
Em ngộ


Đò có lưng là đừng có lo , không những có tháng 12 mà còn có tháng mười ba nữa cơ , cám ơn giùm chủ quán là em Ngộ và em Mây Say vào quán làm quán vui ra với những nụ cười hồn nhiên chân thật và làm anh cũng đỡ đỡ vì cái bệnh lười thấy mà ngán luôn......
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #541 - 12. Nov 2013 , 10:20
 
Siêu bão Haiyan Một cơ hội để đền ơn đất nước Phi


Như một con người tỵ nạn đã từng sống trong các trại tỵ nạn Philippines, như một người Việt Nam tỵ nạn dù không ở các trại Phi và như một người Việt Nam có lòng nhân ái, chúng ta mắc nợ đất nước Philippines một nón nợ vô cùng to lớn. Nhiều trong số chúng ta vẫn mong có cơ hội để đền đáp, có dịp để tỏ bày lòng biết ơn đến người dân Phi,... 

...


Cali Today News - Bataan là thành phố chính của đảo Luzon, Philippines, dân số khoảng trên 600 ngàn người. Lịch sử của thành phố chỉ hai biến cố được thế giới biết đến nhiều, một lần trong đệ nhị thế chiến và lần thứ hai trong làn sóng người tỵ nạn Cộng Sản vùng Đông Nam Á. Trong chiến tranh, trận phòng thủ Bataan là trận đánh cuối cùng trước khi liên quân Mỹthanks.gifhi rút lui và trong làn sóng tỵ nạn, Bataan là nơi dừng chân của 300 ngàn người tỵ nạn, nhiều nhất đến từ Việt Nam. Ngoài ra, đảo Palawan với Làng Việt Nam nhiều huyền thoại cũng là nơi dừng chân của nhiều chục ngàn người Việt.

Đất nước chúng ta đang trải qua thời đen tối. Một thời, từ những cửa biển Đà Nẵng, Sài Gòn, Vũng Tàu, Cam Ranh, Nha Trang sau cơn bão lửa Cộng Sản 1975, hàng triệu người Việt Nam đã phải bỏ lại sau lưng những gì trân quý nhất để ra đi tìm tự do trên những chiếc thuyền gỗ nhỏ. Vùng biển Đông mênh mông trở thành một nấm mồ nước sâu thăm thẳm. Nơi đó, mẹ lạc cha, vợ xa chồng, anh mất em. Nơi đó, tiếng niệm Phật, lời cầu kinh cũng chẳng còn ai nghe thấy. Nơi đó, chỉ còn lại những thân thể trần truồng, máu me nhầy nhụa, chỉ có tiếng rên của những con chim nhỏ Việt Nam bất hạnh trước bầy điêu tặc. Nơi đó, chỉ có đói khát và lo âu, chỉ có những đứa bé hấp hối trong bàn tay thương yêu nhưng tuyệt vọng của mẹ.

...


Trong giờ phút đó, nếu không có chiếc ghe đánh cá người Phi dừng lại, không có Cap Anamur đang chờ ngoài vùng biển Philippines, không có tàu hải quân Phi từ vịnh Manila, hải quân Mỹ từ Subic Bay ra can thiệp, số phận của hàng trăm ngàn người Việt lênh đênh trên đường tìm tự do sẽ trôi dạt về đâu. Năm tháng trôi qua nhưng những địa danh Palawan, Bataan, Subic Bay sẽ không bao giờ phai mờ trong ký ức của những người Việt sống sót trên đường tìm tự do.

Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, mỗi thuyền tỵ nạn trong hải trình từ Việt Nam vào vịnh Thái Lan đã bị hải tặc tấn công trung bình 3.2 lần. Cao Ủy Liên Hiệp Quốc ghi nhận 881 vụ hãm hiếp. Đồng bào đến các trại Phi là những người may mắn. Trong khi bãi san hô Koh Kra trở thành vết đen trong lòng nhân ái của dân tộc Thái, chúng ta có thể không nghe một tình trạng hải tặc cướp bóc hay hãm hiếp do các tàu đánh cá người Phi gây ra. Và khi hầu hết các trại tỵ nạn Đông Nam Á đã trở thành lịch sử, mãi cho đến năm 2012 vẫn còn dấu chân người Việt Nam tỵ nạn ở Phi. Đất nước bao dung này đã đối xử với chúng ta như một người chị, một người em ruột thịt không khác gì truyền thống chị ngã em nâng của văn hóa Việt. Ngoài ra, trước hiểm họa bành trướng của Trung Cộng, hai dân tộc Việt Nam và Philippines, trong tương lai chắn chắn sẽ kề vai, sát cánh nhau để bảo vệ chủ quyền của hai đất nước, bảo vệ quyền tự do hàng hải trên biển Đông và sẽ chứng tỏ cho bá quyền Trung Cộng biết một nước nghèo không có nghĩa là một nước nhược tiểu và một nước nhỏ không có nghĩa là một nước chỉ biết cúi đầu.

Như một con người tỵ nạn đã từng sống trong các trại tỵ nạn Philippines, như một người Việt Nam tỵ nạn dù không ở các trại Phi và như một người Việt Nam có lòng nhân ái, chúng ta mắc nợ đất nước Philippines một nón nợ vô cùng to lớn. Nhiều trong số chúng ta vẫn mong có cơ hội để đền đáp, có dịp để tỏ bày lòng biết ơn đến người dân Phi, những người đã đến với chúng ta trong giờ phút khó khăn nhất, hay nói như nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, họ là tin vui giữa giờ tuyệt vọng của một đời người Việt Nam tỵ nạn.
Hôm nay, như chúng ta đều biết, theo ước lượng của các cơ quan thiện nguyện quốc tế nhiều chục ngàn người dân Phi tại các đảo miền trung Philippines đã chết do cơn bão Haiyan gây ra. Chỉ riêng đảo Leyte Island đã có 10 ngàn người chết. Theo ước lượng của cơ quan National Disaster Risk Reduction and Management Council (NDRRMC) thuộc chính phủ Phi, khoảng 9.5 triệu người bị ảnh hưởng và hiện có 630 ngàn người đang lâm cảnh màn trời chiếu đất. Với sức gió 175 dặm một giờ số thiệt hại nhân mạng và tài sản cuối cùng sẽ còn cao hơn ước tính rất nhiều.
Trong điêu tàn đổ nát do siêu bão Haiyan gây ra những hạt giống tình thương đang được gieo trồng. Hàng trăm tổ chức từ thiện khắp thế giới đang đổ về Philippines không chỉ với thuốc men, áo quần, thực phẩm mà cả nhân lực để góp phần hàn gắn vết thương. Đối với người Việt chúng ta đây là một cơ hội để trả ơn. Một cơ hội để chính phủ Philippines biết dù hôm nay đang sống trong tự do no ấm chúng ta vẫn không quên những mái lá đơn sơ ở trại tỵ nạn, cơ hội để góp phần xoa dịu nỗi khó khăn của hàng triệu nạn nhân cơn bão Haiyan và ngoài ra cũng là cơ hội để giúp chính chúng ta vơi đi mặc cảm quên ơn vốn từ lâu đè nặng trong lòng.

Trần Trung Đạo

...

American Racer và Green Port đang vận chuyễn những người tỵ nạn Viêt Nam tại Phi Luật Tân vào ngày 2 tháng 5 năm 1975



Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #542 - 12. Nov 2013 , 10:36
 

...

DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN
KÝ ỨC VỀ NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN


Bùi Trọng Cường & Nguyễn Phục Hưng



Sau ngày 30-4-1975, một ký giả Tây phương đã viết là ‘Dưới chính sách khắc nghiệt của Cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt biên’. (Ginetta Sagan). Câu nói dí dỏm của Sagan đã diễn tả được một thực trạng rất bi hài của dân dộc Việt Nam trong khoảng thời gian hơn hai mươi năm kể từ Tháng Tư, 1975 cho đến năm 1996.

Những người chạy trốn chế độ Cộng Sản có thể chia làm hai đợt chính: Đợt đầu được mệnh danh là người Di Tản vì họ rời Việt Nam ngay trong khoảng tháng Tư 1975 và đợt thứ hai thường được mệnh danh là ngưòi Vượt Biên, dù bằng đường bộ hay đường biển.
Di Tản

Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày chính thức ghi nhân sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà trước làn sóng xâm lăng của cộng quân. Cuối tháng 4,1975 đã có những đợt rời Việt Nam của các nhân viên và gia đình các sứ quán, công ty ngoại quốc cũng như nhừng người Việt có phương tiện riêng hoặc được các cơ quan Hoa Kỳ và các nước đồng minh bảo trợ. Ngày 29 tháng tư 1975, Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford chính thức ra lịnh khỏi động chiến dịch “Frequent Wind” để di tản quân nhân, nhân viên dân sự Mỹ và một số người Việt đã từng cộng tác hay liên hê với chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa rời khỏi Việt Nam để tránh bị Cộng Sản trả thù.

Cùng thời điểm này, rất nhiều người Việt Nam cũng đã quyêt đinh di tản. Họ là những người mà đã ít nhất một lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả ông bà, tổ tiên để di cư vào Nam năm 1954, họ là những người đã có ít nhiều hiểu biết, kinh nghiệm về cộng sản, họ là những người đã may mắn vượt thoát được sau cuộc triệt thoái của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa khỏi miền Cao nguyên và miền Trung, họ là những người chối bỏ chế độ cộng sản. Ðó là lý do mà làn sóng người di tản trong tháng Tư 1975 đã làm nhiều người ngạc nhiên với con số khoảng 300 ngàn người và các cơ quan cứu trợ quốc tế đã phải mất nhiều thời gian để giúp họ định cư ở các nước tự do nhất là Mỹ, Canada, Úc, Tân Tây Lan và các trai tạm cư ở Subic Bay (Philippines), Guam, Wake Island, California, Arkansas, Florida, Pensylvania ãa phải mở mãi cho đến cuối năm 1975.

Chiến dịch ‘Frequent Wind” trên nguyên tắc chỉ kéo dài từ 3:30 chiều ngày 29 tháng tư và chấm dứt vào đúng 21 giờ ngày 30 tháng tư, 1975 khi người lính Mỹ cuối cùng được trục thăng bốc khỏi Sàigòn và trụ sở của cơ quan DAO (Defence Attachés Offfice) của Hoa Kỳ được Thủy quân lục Chiến Hoa kỳ cho phá nổ. Tuy nhiên với làn sóng người di tản rầm rộ đổ ra biển Thái Bình Dương bằng các tàu hải quân, thương thuyền và cả các tàu đánh cá nhỏ, việc cứư vớt người vẫn được tiếp tục trong nhiều tuần sau đó. Hạm đội số 7 của Hải quân Hoa Kỳ với các hàng không mẫu hạm Hancok , Midway và nhiều tàu chiến hạm cũng như nhiều thương thuyền Hoa kỳ và quôc tế đã tham dự vào chiến dịch cứu vớt người trên biển rồi chuyển qua các trai ty nạn ở Subic, Guam trước khi phân tán họ đi tị nạn tai Hoa kỳ và các nước tự do khác như Canada, Uc, Pháp, Anh, vân vân. Trên thực tế, giai đoan di tản và vượt biên không có sư gián đoạn. Có chăng chỉ là sự phân chia thời điểm chính phủ Hoa Kỳ chấm dứt chiến dịch vớt người trên biển mà thôi, còn sự ra đi của người Việt vần tiếp tục không ngừng.
Những hình ảnh sau đây ghi nhận cảnh hãi hùng của một cuộc di tản chưa từng có trong lich sử Việt Nam và thế giới.

Cuộc Di Tản tháng tư năm 1975 đã có nhiều cảnh đẫm máu và nước mắt nhưng tình nhân loai cũng đã được biểu lộ rõ rệt từ những quân nhân và các cơ quan từ thiện. Sau khi đã đến đựợc Mỹ hay các nước mở vòng tay đón nhân, dân Di Tản còn phải trải qua nhiều khó khăn như sự khác biệt ngôn ngữ, văn hóa, vân vân để tạo lại cuộc sống.

Vượt Biên

Họ ra đi mà không biết mình đi đâu, sẽ đến đâu; đa số không biết gì về đại dương cùng những nguy hiểm của những chuyến hải hành cũng như không biết gì về những khó khăn khác đang chờ đợi họ. Ðó là lý do mà có lúc người ta đã nói “ nếu có ba người vượt biên thì chỉ có một người đến bến an toàn, một người chết trên biển vì bảo tố, đói khát và hải tặc và một người sẽ bị bắt lại và đi tù”.
The State of the World’s Refugees 2000:
50 Years of Humanitarian Action
Những Người Vượt Biên là ai và tai sao họ phải liều mình đi tìm Tự Do?


Họ chính là những người chậm chân trong giai đoạn Di Tản. Có thể lúc đó họ còn chút hy vọng là những người Cộng sản cũng còn chút lương tâm và sáng suốt không nỡ đối xử với những người dân miền Nam như kẻ thù không đội trời chung và họ sẵn sàng cộng tác với những người Cộng sản để cùng xây dựng một Đât nước Thông Nhất trong Hòa Bình. Họ đã lầm sau bao nhiêu ngày lầm than tôi mọi cho những người Cộng Sản vô lương. Họ đã mất hết tài sản, tự do và cả phẩm giá con người dưới chánh sách trả thù tàn bạo của Cọng sản. Họ có thể chịu nghèo khổ để hy vọng vào một tương lai xán lạn. Nhưng tương lai chỉ có tù đầy, thù hận và dối trá. Thế hệ của họ coi như bỏ vì họ đã lỡ tin Cộng Sản. Nhưng còn thế hệ con cái họ? Họ không thể chịu cực khổ nhìn con cái họ trở thành những con vật trong xã hội Cộng sản Xã hội Việt Nam đã lùi lại hơn 30 năm sau cái ngày gọi là ‘giải phóng’. Tương lai họ còn gì đâu ngoài một lối đi duy nhất: Vượt Biên. Nếu may ra thoát được qua bờ Tự Do thì con cái họ còn có hy vọng sống được một cuộc đời đáng sống. Còn không, đời sống ở Việtnam có khác gì đã chết. Bới vậy Họ đã quyết chí liều mình Vượt Biên qua Cam-pu-chia, đến Thái Lan hay Vượt Biển qua Mã Lai, Nam Dưong, Phi Luật Tân nơi nào cũng được, miễn là ra khỏi điạ ngục Việt Nam bất chấp sự bắt bớ lùng xét của công an, hiểm nguy của hải tặc, bão tố hãi hùng ngoài biển Đông.

Sau đây là vài trích đoạn từ các tác phẩm viết về tỵ nạn:
“Người Việt Nam chỉ ra đi trong thế cùng, không còn cách nào có thể sinh sống tại quê hương của mình. Ðây là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại chống lại chế độ cộng sản Hà Nội bằng chính mạng sống của mình. Trong số nầy, rất nhiều người mang hoài bảo sẽ có một ngày trở về quang phục quê hương. Số người tử nạn trên bước đường vượt biên không thể thống kê chính xác được. Người ta phỏng chừng từ 400.000 đến 500.000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết.

Vượt biên năm 1975 là cuộc xuất ngoại vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ ngày lập quốc. Ðây là một sự kiện hoàn toàn bất ngờ đối với Nam Việt, Bắc Việt, Hoa Kỳ và cả thế giới. Trước đó, không một ai có thể tiên đoán được phong trào vượt biên sẽ xảy ra đến mức lớn lao như thế. Phong trào vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1996 ngang bằng với thời gian chiến tranh từ 1954 đến 1975. Tổng số người rời bỏ đất nước bằng tất cả các cách, cộng với những người tử nạn trên đường vượt biên, lên đến khoảng gần bằng tổng số dân chúng và quân nhân Việt Nam cả Nam lẫn Bắc tử trận trong cuộc chiến từ 1954 đến 1975 (khoảng 3,000,000).

Những đợt vượt biên ào ạt, bất chấp mạng sống đã làm rúng động lương tâm nhân loại, và đã phơi trần bản chất độc ác của chế độ Cộng Sản Việt Nam (CSVN) trước công luận thế giới. Sự kiện nầy là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với nhân loại về “Thiên Đường Cộng Sản” và trở thành động cơ thúc đẩy các nước Ðông Âu ly khai chủ nghĩa cộng sản, và dẫn đến sự sụp đổ của khối cộng sản năm 1990-1991?

Phỏng theoTrần Gia Phụng

‘‘Bước vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam vẫn là một trong các nước chậm tiến trên thế giới, mặc dầu có sẵn tiềm năng, nhưng vì sai lầm nghiêm trọng của đường lối Xã Hội Chủ Nghĩa. Những thảm trạng xẩy ra trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cần phải được ghi nhớ, trong đó có hai sự kiện gần nhất là việc nhà cầm quyền cộng sản giam cầm công dân vô tội trong tù cải tạo và việc người dân trốn ra ngoại quốc trong những điều kiện bất trắc đầy nguy hiểm. Giam giữ người vô tội trong các trại tập trung cải tạo, chế độ cộng sản đã một mặt vi phạm tội ác, một mặt phung phí năng lực quốc gia để phục vụ mục tiêu đảng phái. Đảng Cộng Sản không chịu thú nhận rằng chính tàn bạo của họ là nguyên nhân khiến người dân phải bỏ nước ra đi, mà họ còn lợi dụng cơ hội ra đi đó để cướp đoạt tài sản, thu vàng bán bãi, mặc cho tài năng quốc gia thất thoát ra ngoài và biết bao người dân lương thiện đã bị chết kinh hoàng trên biển cả.

Phạm Hữu Trác – Vàng Máu và Nước Mắt

Trong 2 năm qua, nhất là từ tháng 9 năm 1978, làn sóng người tị nạn từ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang tràn ngập các trại tị nạn ở Ðông Nam Á. Ngoài ra, hàng trăm ngàn người Việt Nam đã bị chính quyền Hà Nội bắt buộc ra đi trên những con tàu không thể đi biển được, và đã biến mất trên Biển Ðông đầy bất trắc. Ở một số bờ biển Thái Lan, các ngư dân đã phải quay tàu về đất liền khi chứng kiến cảnh hãi hùng như một phần thi thể của người vượt biển vướng vào lưới, vân vân.

Vì sao quá nhiều người liều mạng bỏ trốn khỏi Việt Nam? Ta có thể tìm thấy câu trả lời khá dễ dàng trong các chính sách hậu chiến đã được công khai thực hiện: “tiêu diệt các thế lực thù nghịch: trừng trị những kẻ bù nhìn, đánh bại giới tư bản, đánh đuổi người Trung Hoa.”

Hiện tượng thuyền nhân đã phản ảnh được cái đau khổ của người phải rời bỏ quê hương. Họ không phải chỉ kín đáo đi từ bên này sang bên kia biên giới, chờ đợi cơ hội quay về khi mọi chuyện đã trở lại bình thường hay theo ý họ mong muốn. Họ ra đi, không hề biết trước mình sẽ đến đâu, không có viễn ảnh hồi hương, và cam chịu mọi hiểm nguy. Họ phải đang tâm cắt bỏ những ràng buộc với quê hương và dân tộc.

Thuyền nhân là những người không chịu đựng được chính sách hà khắc của chính quyền cộng sản Họ là những người mà trước năm 1975, không bao giờ muốn rời bỏ quê hương. Trớ trêu thay, lịch sử đã đảo lộn, đã thay đổi cuộc đời ho vượt xa sức họ tưởng tượng, đến mức họ phải quyết định bỏ lại sau lưng tất cả những người và những gì yêu quý, liều mạng sống của mình cũng như chấp nhận mọi nỗi kinh hoàng của một tương lai bất định, để rời khỏi Việt Nam.
Lesleyanne Hawthorne - Refugee - The Vietnamese Experience
Những ‘thuyền nhân’, danh từ thế giới gán cho họ, thường phải chịu nhiều rủi ro lớn lao, từ rất lâu trước khi đặt được chân xuống tàu. Trong khi cố gắng tìm cách để thoát được công an và lính biên phòng, họ đã chấp nhận rủi ro bị bắn, hoặc nhẹ nhất là, bị bắt lại và bỏ tù. Những ai may mắn xuống được tàu phải ra đi trên các thuyền đánh cá mỏng manh đầy ắp người không thích hợp để đi vượt đại dương. Thường thường, họ nhắm hướng đi đến Thái Lan hoặc Mã Lai, nhưng lại cập bến ở đâu đó giữa Hồng Kông và Úc Ðại Lợi. Biển cả cũng cướp đi một số người mà không ai biết được là bao nhiêu.

Tuy vậy, cuối cùng thì câu chuyện về những người tị nạn Ðông Dương là câu chuyện về những người bị từ chối. Trước tiên và đau đớn nhất, họ bị chính quyền của chính nước họ khước từ. Họ cũng nhiều lần bị cự tuyệt bởi các quốc gia lân bang nơi họ đến xin tạm trú, và bị từ chối ít nhất là vào lúc đầu bởi các nước Tây Phương và Nhật Bản, những quốc gia duy nhất có khả năng và tấm lòng cứu vớt thuyền nhân.

Barry Wain - The refused: The Agony of The Indochina Refugees

“Chúng tôi cần gạo và thực phẩm. Trong những ngày này, chúng tôi không có tiền để mua thêm thức ăn. Chúng tôi không được phép có công việc làm. Nếu thực phẩm được phát trễ, chúng tôi chỉ việc nhịn đói. Chúng tôi có rất ít nước uống, vì đang là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện không thay đổi, chúng tôi sẽ chết hết.”
Refugee: Thailand, 1978“Trong bệnh viện, một người đàn ông và đứa con trai đang khóc trên lán. Tàu họ đã đến đêm hôm trước, nhưng bị lật úp. Người vợ, người mẹ đã chết đuối.”
Delegates of ‘Society of Friends’: Malaysia, 1979
“Các lính tuần tra phát hiện có những bao ni-lông xoáy tròn trên mặt nước. Họ chuẩn bị tăng tốc độ vọt đi tiếp, thì khám phá ra rằng, các bao nhựa này đã được thổi phồng, căng lên, để chở hai em bé sơ sinh, dĩ nhiên là chưa biết bơi. Người mẹ đang ra sức đẩy chúng. Người cha đã không may chết đuối trước đó.”
Report: Mekong River Crossing, 1978
Người mẹ của một em trai 14 tuổi kể lại, tàu của cô bị hải tặc từ một tàu cào của Thái Lan nhảy sang. “Tôi biết bọn chúng sẽ làm gì”, cô vừa kể vừa khóc nức nở. “Tôi van xin chúng đừng làm gì trước mặt con trai tôi. Vì thế, chúng đưa tôi vào cabin tàu, rồi 7 tên cưỡng hiếp tôi trong đó.”
Refugee: Malaysia, 1979
Anh Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở 1 bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của mình lần thứ ba.
Anh ra đi trên một chiếc tàu gồm 62 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp thời tiết và gió thuận lợi, và không bị rắc rối gì về máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên biển, một chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn tàu anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị vũ khí đầy đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô này bị ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh không được kêu la. Cô bị chúng cưỡng hiếp. Bọn hải tặc sau đó nhảy qua tàu tị nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị, bắn một người đàn ông còn do dự khi chúng cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải chiếm được, nhưng thình lình quay ngoắt lại. Vẫn giữ nguyên tốc độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tị nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã lập đi lập lại hành động này trong khi nhóm người tị nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang nhấp nhô, có lẽ vì không muốn để sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân còn đang chới với trên mặt nước, với đứa con trai mới lên 3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị tàu cán qua và chết đuối. 10 người trong số họ sống sót, sau đó được vớt lên và đưa tới Songkhla.
Toàn thể thính giả đều nín lặng. Ðó là một câu chuyện thương tâm hơn những chuyện khác, nhưng hẳn nhiên không phải là ngoại lệ, hiếm có. Có rất nhiều tàu tị nạn đã bị hải tặc tấn công nhiều hơn một lần.”

UNHCR: 1979
Bao nhiêu thuyền nhân đã chết ngoài biển khơi? Không ai biết chắc cả. Nhiều người nói với chúng tôi rằng có lẽ 5% các tàu rời Việt Nam đã bị mất tích, nhưng nhiều người lại cho là có đến 70% tàu không hề đến được bờ.

Trong vài năm đầu những thuyền tỵ nạn còn được tiếp đón tử tế bởi dân chúng và chính phủ các nước láng giềng nhưng vì làn sóng tỵ nạn ngày càng nhiều nên những niềm nở ban đầu đã bị giảm xuống hoặc tệ hơn đã bị thay bằng thái độ xua đuổi như đã từng xẩy ra ở Thái Lan, Mã Lai. Tầu của người tỵ nạn, khi bị tầu hải quân Mã kéo trở ra hải phận quốc tế có một số đã bị chìm và làm chết oan một số người. Do đó nếu như may mắn không bị bắt lại, thoát được gió bão, không hư máy dọc đường và không gặp hải tặc các thuyền nhân vẫn chưa chắc sẽ đến được các trại tạm cư. Ðó là chưa kể đến những khó khăn về đủ mọi phương tiện từ vệ sinh, y tế, nước uống, thực phẩm…nơi các trại tỵ nạn. Thật ra dùng chữ trại tỵ nạn cho lịch sự vậy thôi chứ vào thời điểm ấy không một quốc gia nào có thể lường được là con số người chạy cộng sản, bỏ nước ra đi sẽ đông đến như vậy. Do đó chẳng có quốc gia nào đã có những sửa soạn để có thể đón tiếp một số lượng người đến quá ào ạt và nhiều đến thế. Trại tỵ nạn đã là những kho xưởng, những trại lính, những chiếc phà cũ, những chiếc phao nổi, những hòn đảo san hô hoặc đảo hoang, nhỏ nằm chơ vơ giữa đại dương. Ðặt được chân trên đất là phải đi tìm cỏ, đốn cây để dựng lều để tạm trú tránh cái nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm….Còn nhiều nhiều nữa, kể sao cho hết những cái khổ của kiếp lưu vong. Ðến năm 1988 vì quá mệt mỏi với số người tỵ nạn phải cưu mang trên hơn mười năm, Cao Ủy tỵ nạn và các quốc gia có trại tạm cư đã quyết định áp dụng hệ thống thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của các thuyền nhân nếu họ đến sau ngày 16-6-1988. Quyết định này cũng đã gây ra khá nhiều thảm cảnh rất đáng thương như được kể lại dưới đây.

Sau đây là vài trích đoạn về những thảm cảnh đầy nước mắt đó.

“0 giờ ngày 16-6-1988 mở đầu một định mệnh khác cho những người Việt Nam vượt biển đến Hồng Kông. Kể từ ngày này họ sẽ bị đối xử như những người nhập cảnh bất hợp pháp và phải chờ chính phủ thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị, trước khi được cứu xét cho đi định cư ở nước thứ ba. Thời điểm phủ nhận ý nghĩa ban đầu sự ra đi của người vượt biển. Thời điểm đánh đổ mọi luận cứ sắp sẵn về quyền tỵ nạn, về quyền đi tìm chỗ trú, và đồng thời che dấu luôn sự bất lực của con người trước thảm cảnh của đồng loại, sự hấp hối của lương tri trước nỗi khổ của những cuộc khởi hành muộn. Như một tấm màng nhện giăng ra chận bắt những cuộc đời lưu lạc, thời điểm 16-6 dựng nên những trại giam khổng lồ trên khắp thuộc địa Hồng Kông, ghi thêm một thảm cảnh thời đại.”
Lê Ðại Lãng - NƯỚC MẮT TRONG TIM


“Ngày 20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau đó anh đã chết vì phỏng nặng.” Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam, tự thiêu ở trại tị nạn Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994. Hai ngày thì anh qua đời.

Vietnamese refugees were allowed to come on shore at the Government Dockyard at Canton Road. A number of water taps were installed for them to take a cold shower.
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-20.html

Ngày 12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không vận của Nam Việt Nam, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư cách tị nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để lại 1 góa phụ và 3 đứa bé mồ côi cha còn nhỏ dại.

Ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tị nạn chính trị.

Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt Nam. Cha cô là lãnh tụ của một chính đảng chống cộng và đã chết trong ‘trại cải tạo’ của cộng sản. Gia đình cô bị trục xuất khỏi nhà, tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân Cúc cũng bị đuổi khỏi trường vì ‘lý lịch gia đình xấu’. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ quy chế tị nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng bị bác bỏ, cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thái Lan.

Vụ tự sát của Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đã gây nên một cuộc biểu tình phản đối ở trại tị nạn Pulau Bidong, Mã Lai. Anh đã lao mình từ vách đá xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tị nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.

Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tị nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt ‘thanh lọc’. Vì Khôi không có 3.000 đôla Mỹ mà các viên chức duyệt xét đòi hỏi, đơn kháng cáo của anh sau đó cũng bị bác.

Ngày 8/12/1993, Trần Anh Dung từ trần khi lên cơn suyễn, sau khi Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc (LHQ) đóng cửa trạm y tế duy nhất trong trại tị nạn.

Tháng 2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, một em gái 16 tuổi không người thân thích, đã tự thiêu sau khi Cao ủy tị nạn LHQ rút lại quy chế tị nạn của em.
Vietnamese refugees arriving at Hong Kong by junks.

“Chị thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tị nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu”
(Thư tuyệt mệnh của anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hồng Kông, ngày 16/2/1990.)

“Bản tường trình của luật sư đã khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó đã dần dần đẩy tôi vào chỗ chết.”
(Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao ủy tị nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.)

“Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.”
(Vài hàng tuyệt mệnh của Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đã tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy tị nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Mã Lai.)
Living in the Refugee Camp
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
VIETNAMESE BOAT PEOPLE – A CRY TO HUMANITY
Inside the Refugee Camp
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
Boat people were waiting for medical checks before transferring to refugee camps
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-32.html

Lời Kết


Cuộc Di Tản và Vượt Biên sau ngày 30 tháng tư năm 1975 là một bản án muôn đời đối với chính sách vô nhân đạo của Cộng Sản Việt Nam. Những cảnh tượng đau thương, kinh hoàng mà người Di Tản và Vượt Biên phải gánh chịu thật không bút nào ta hết. Tuy nhiên trong biến cố đầy bất hạnh đó, cũng không thiếu những tấm lòng bao dung, thể hiện rõ tình người, của binh sĩ và dân chúng Hoa Kỳ cũng như các quốc gia trong thế giới tự do, nhất là các nước vùng Đông Nam Á đã bao dung chúng ta tại các trai tị nạn.
Chúng ta mang ơn dân chúng và chính phủ các quốc gia đã cưu mang người Việt tỵ nạn, giúp chỗ tạm cư, cho phép định cư hoặc đã cứu vớt tầu tỵ nạn khi lạc lối, hết lương thực hay máy tầu bị hỏng. Chắc chắn là sự thành công của thế hệ thứ hai trong Cộng Ðồng Người Việt Hải Ngoại, sẽ không bao giờ xảy ra nếu không có sự cưu mang của các quốc gia trong Thế Giới Tự Do vào thời điểm đen tối đó.

Ngày hôm nay, sau hơn 30 năm tỵ nạn, viết lại một phần nhỏ trong những nỗi khổ đau của dân tộc để chúng ta ôn lại và ghi nhớ một sự kiện lịch sử không phải là của riêng Việt Nam, mà là của thế giới, trong đó chính chúng ta vừa là tác nhân, vừa là nhân chứng.

Các em tới Trại Tỵ Nạn . . . và thành công trên quê hương thứ hai
Hơn 30 năm sống lưu vong, lúc nào đa số chúng ta cũng vẫn mong có ngày trở về để góp phần xây dựng lại quê hương lạc hậu, giúp cho dân tộc ta sớm được sống trong không khí Tự Do, Dân Chủ đích thực mà dân ta chưa bao giờ được hưởng.

Ðiều này chỉ có thể xảy ra khi người Việt trong và ngoài nước thật tâm đặt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên mọi quyền lợi riêng tư và thoát được sự chi phối của các thế lực chính trị quốc tế.

* * *
TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tran Gia Phung – Speech Delivered at Montreal, Canada on April 30, 2002
Nguyễn Văn Canh - Cộng Sản Trên Ðất Việt - Kiến Quốc 2003
Ashworth Georgina – The Boat People and The Road People – Quartemaine House 1979
Phạm Hữu Trác – Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do – VÀNG MÁU và NƯỚC MẮT: Khảo Sát Về Tù Cải Tạo và Vượt Biên Trong Giới Y Sĩ – 2000
Paul Anthony – Why They Flee Their Homeland – Reader’s Digest December 1979
Grant Bruce – The Boat People: An ‘AGE’ Investigation – Penguin Books 1979
Hawthorne Lesleyanne – Refugee The Vietnamese Experience – Oxford University Press 1982,
Wain Barry – The Refused: The Agony Of The Indochina Refugees – Simon & Schuster 1981
Lê Ðại Lãng – Bút Ký Hồng Kông: NƯỚC MẮT TRONG TIM – 1990, p. I
Support Committee for Refugees from Vietnam – Vietnamese Boat People: A CRY TO HUMANITY – 1994
Back to top
 
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #543 - 12. Nov 2013 , 22:12
 
...

Cho Đi Là Nhận Lại


Có một cô gái trẻ chuyển nhà mới. Cô phát hiện hàng xóm nhà mình là một phụ nữ nghèo goá chồng, sống với hai đứa con nhỏ. Một ngày nọ, khu phố bị mất điện đột ngột. Cô gái trẻ phải dùng nến để thắp sáng.
Một lát sau, có tiếng gõ cửa. Hoá ra là đứa bé con nhà hàng xóm. Nó hồi hộp hỏi:
- "Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?"
Cô gái trẻ nghĩ:
" Nhà nó nghèo đến mức nến cũng không có mà dùng ư? Cho nhà nó một lần, lần sau lại sang xin nữa cho mà xem!"
Thế là cô gái sẵng giọng:
-"Không có!"
Đúng lúc cô định đóng cửa lại, đứa trẻ nhà hàng xóm nghèo mỉm cười nói:
-"Cháu biết ngay là nhà cô không có mà!"
Nói xong, nó chìa ra hai cây nến:
-"Mẹ cháu với cháu sợ cô chỉ sống có một mình, không có nến nên bảo cháu mang nến sang cho cô dùng tạm."
Trong cuộc sống của chúng ta cũng sẽ có những lúc như thế. Dù con người sống trong hoàn cảnh khó khăn hay giàu có, họ đều cần sự an ủi từ ai đó.
Đừng ích kỷ, hãy lắng nghe âm thanh cuộc sống. Cuộc sống của ta sẽ không xấu, mà thậm chí nó còn đẹp hơn khi chúng ta cho đi.
Bởi... CHO đi chính là NHẬN lại!
Back to top
« Last Edit: 12. Nov 2013 , 22:13 by macco »  
 
IP Logged
 
tieuvuvi
Gold Member
*****
Offline


Vũ Tuyết Như - Tiểu
Long Nhi-TiênDung

Posts: 4065
Bordeaux - france
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #544 - 12. Nov 2013 , 22:34
 
...


Tháng mười một,
bước theo dấu tình sầu



Tháng mười một,
Gió run rẩy buông lơi tiếng thở dài
Chiều cuối thu xanh xao mùa rét ngọt
Đường em về phía bên này nỗi nhớ
Hương kỷ  niệm nồng nàn  còn thắm vương…

Tháng mười một,
Bóng em gầy giữa góc phố mù sương
Từng bước lang thang trầm khua khắc khoải
Heo may buốt giá bờ môi tê cóng
Người hỡi hay chăng… nước mắt hoen đầy…

Tháng mười một,
N phương xa đó, đêm có buồn vây
Đếm hạt thu mưa hoài mong ngóng đợi
Gót em quay về tròn câu duyên nợ
Một đời bên nhau phối ước trăm năm…

Tháng mười một,
Mưa vẫn vọng từ ký ức xa xăm
Dù mai đây thời gian có vô tận
Mãi còn em-anh bên bờ sông nhớ
Cạn chén tương tư trên đỉnh tình sầu…



PTMChoado


Tiểu Vũ Vi
01/11/13


Back to top
 

...
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #545 - 12. Nov 2013 , 23:39
 
khieulong wrote on 12. Nov 2013 , 10:15:
Đò có lưng là đừng có lo , không những có tháng 12 mà còn có tháng mười ba nữa cơ , cám ơn giùm chủ quán là em Ngộ và em Mây Say vào quán làm quán vui ra với những nụ cười hồn nhiên chân thật và làm anh cũng đỡ đỡ vì cái bệnh lười thấy mà ngán luôn......


Bịnh lươi huyền của anh sáu KL đà bớt rùi.
Em TvMs cám ơn  Ngố , Mì cây Dừa , chị Mắc cở , Em Vi , anh sáu KL...... và tất cả đã , đang và sẽ vào đây ,cùng chia nhau ,những  nổi vui buồn , tài liệu , tin tưc... thật  trân quý nhé.

...

Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người VN ở Phi nói riêng , và cho tất cả mọi người trên Thế Giới , không bị Thiên Tai , thật tang thương  ,như nước Phi vừa qua.

Em TvMs
Back to top
 

hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #546 - 13. Nov 2013 , 11:22
 
khieulong wrote on 12. Nov 2013 , 10:15:
Đò có lưng là đừng có lo , không những có tháng 12 mà còn có tháng mười ba nữa cơ , cám ơn giùm chủ quán là em Ngộ và em Mây Say vào quán làm quán vui ra với những nụ cười hồn nhiên chân thật và làm anh cũng đỡ đỡ vì cái bệnh lười thấy mà ngán luôn......



Dị một tháng 2 bài đi anh Sháu,đọc mới phê. Grin
em ngộ
Back to top
 
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #547 - 13. Nov 2013 , 11:36
 
Việt Nam- 6 tháng- một mình một ngựa- một trái tim

...

Fansipan- Lá cờ… và một cái tát…

Tôi thường bảo sức lực mình không biết có còn nhiều để trèo lên nóc nhà Đông Dương không?… câu hỏi ấy hiện lên trong khi nhiều bạn trẻ tôi quen ở Việt Nam khuyên tôi nên leo Fan một lần cho biết…

Fansipan không phải là một ngọn núi cao mà tôi chưa vượt qua được khi còn trẻ… ngày trẻ tôi rất thích núi và thích leo núi nên cũng đã từng leo núi bằng tay, bằng dây, bằng đôi chân khỏe của mình nhưng bây giờ với số tuổi này leo ngọn núi 3120 mét thì quả không phải là một chuyện dễ… nói như thế không có nghĩa là sức khỏe của mình không leo nổi nhưng cái ý chí, nhiệt huyết của mình không còn như ngày xưa nữa… chứ thật ra với nhiều người hơn tuổi tôi, nhất là những người ngoại quốc thì đó là chuyện thường ( nếu họ thích leo)… nhiệt huyết và ý chí của tôi thường không còn như ngày xưa nữa, qua năm tháng đã tàn lụi đi nhiều rồi… nhưng lần này với một ý nghĩ được thấy lá cờ “ Việt Nam Cộng Hòa” bay trên một ngọn núi cao nhất Đông Dương ( nói cho oai chứ Đông Dương thì chỉ có 3 nước là Việt Nam, Lào và Campuchia mà thôi)… Tôi có nhiều hứng phấn.

Vậy là lần thứ hai ra ngoài Bắc… Lần thứ hai một mình lang thang trên rừng Bắc Việt vào mùa lúa chín đẹp nhất mà nhiều người muốn đến chỉ để chụp hình cảnh đẹp thiên nhiên thì tôi đã đi một mình với tấm lòng mở rộng để cảm nhận từng con đường và con người Bắc Việt một lần nữa. Lần này đi không phải để nhìn cảnh, hay tìm món ăn mà để cảm nhận những vùng miền mình đi qua… Tôi thường ngừng lại chỉ để xuống gặt lúa cùng người dân trên tuyến đường đi Sapa, hái trà ở Mộc Châu, kéo sợ giăng tơ trên miền hẻo lánh Mèo Vạc mà vùng gì tên gì tôi cũng không biết… Cứ đi là tôi luôn đến tiếp cận người dân để nhìn cuộc sống của họ, tìm hiểu và suy ngẫm…

Tôi quyết định leo Fansipan chỉ vì nghĩ một điều là thấy được lá cờ Tổ Quốc tung bay… Suy nghĩ ấy làm nung náu bầu nhiệt huyết trong long tôi và tôi chỉ muốn làm như thế…

Đến Sapa tôi hẹn gặp một người đàn ông mà tôi quen trên phượt… Ông đến để chụp hình và cũng đi một mình… Lần đầu tiên gặp và ăn tối, nghe ông nói chuyện tôi thấy “con người” này là một người không thể kết làm bạn vì quá khoe khoang nhưng tính tôi hay cả nể, ít nhiều không muốn nhìn vào cái xấu của người ta nên không muốn tranh cãi những điều ông đã nói….

Ông cũng muốn leo Fansipan vì đứa con gái của ông bảo “ bố nên leo cho biết…”…. Đi đâu ông cũng đeo theo ba lô laptop để cứ có được 3G là post hình lên trên trang phượt… Con người có người thích thể hiện cái này, có người thích thể hiện cái kia… Ông thích chụp hình, hình khá đẹp vì ông bảo ông là nghệ sĩ… Tôi cũng thích những tấm hình ông chụp, có góc cạnh nghệ thuật nhưng ít nhiều cũng được chỉnh sửa bởi flick làm cho hình ảnh sống động hơn… Tôi thì lại thích cái cách tự nhiên của ông nhìn không qua photoshop….

Cũng nói thêm về người đàn ông này… Ông sinh trưởng ở ngoài Bắc đến năm 75 mới vào Nam, năm 20 tuổi… Mẹ người miền Nam, bố người Bắc, có nghĩa là mẹ ông là người Nam đi tập kết ngoài Bắc, như vậy có nghĩa là theo chính nghĩa thì hai chúng tôi không đứng cùng vĩ tuyến… Ông bảo bố ông là một nghệ sĩ và chính ông cũng là một nghệ sĩ… Tôi nghe ông nói về mình bằng những tự hào về bố, mẹ để lại gia sản nhiều hơn là chính ông đã tạo ra được… Tôi chán nghe nhưng tại cái tính cả nể ít phản kháng khi không cần nên cứ người ta nói thì tôi chỉ ngồi nghe mà thôi… Nhưng tôi có chia sẻ với ông việc tôi muốn làm khi leo Fan…

Thực sự tôi không phải là một người thích nói về chính trị… Nhưng tôi biết giá trị của những gì mà nước Việt Nam Cộng Hòa trước năm 75 để lại và các ông cha của tôi đã đấu tranh và tôi luôn giữ lập trường của mình nhưng tôi là người đàn bà nhỏ bé, cái đầu nhỏ, óc nhỏ nên tôi không thích lí luận với người khác về chính trị trừ khi người ấy đụng chạm đến thế chính mà tôi đang tôn trọng…

Tôi nói với ông rằng tôi, tôi là người quốc gia Việt Nam chứ không phải người Việt cộng sản nên lá cờ đỏ sao vàng không phải là lá cờ của tôi… Nên khi đi đâu nếu tôi giương lá cờ vàng ba sọc đỏ lên (vì với tôi nó mang nhiều ý nghĩ của một nước Việt Nam )thì xin hiểu cho rằng tôi chỉ muốn nói lên rằng trong tấm hình đó “tôi là người quốc gia Việt Nam đã đến đây” … Cũng như nếu tôi là người Pháp tôi sẽ giương lá cờ Pháp lên rằng “ tôi là người Pháp đã leo lên đỉnh Fan”… Đơn giản chỉ có vậy thôi.

Ông đã gật đầu đồng ý với tôi về quan điểm đó… Và tôi không thích bàn luận về chính trị hoặc tôn giáo với người đối diện, đó là hai vấn đề luôn nhạy cảm với người mới quen… Tôi luôn nghĩ mỗi người có một tư duy riêng, mình tôn trọng tư duy người khác thì họ cũng cần tôn trọng mình. Những vấn đề chính trị, tôn giáo không nên đem ra làm đề tài bàn luận.

Nhưng khi chúng tôi leo lên đến gần đỉnh Fan, đêm ngủ lại để sáng leo lên đỉnh thì chúng tôi ăn cơm cùng nhau, có rượu uống… rượu vào thì lời ra… Ban đầu ông uống rồi khoe khoang đủ thứ về mình, sau đến chuyện tôi muốn đi tắm… Trời thì lạnh mà tôi luôn nói tôi không tắm thì không ngủ được… Nhưng thực sự thì tôi là đàn bà, buổi sáng trước khi leo Fan thì tôi lại đến chu kì nên đã định là không đi được nhưng rồi cũng cố gắng vì nghĩ đã đến đây nếu đợi nữa thì sẽ mất rất nhiều thời gian nên tôi đã ra tiệm thuốc mua vài viên thuốc uống cho bớt đau bụng rồi cứ đi… Chẳng lẽ cứ nói toạc ra với ông là “ tôi cần đi….”. Sau khi cậu bạn trẻ “ đẹp trai” đi cùng đoàn ( đoàn chúng tôi có 4 người, chỉ một mình tôi là đàn bà, trong căn lều hôm đó có nhóm người Malaysia khá đông hai vợ chồng hay hai bố con người Nga, chỉ có 4 chúng tôi là người Việt Nam, vì hôm đó là ngày thường nên ít người Việt thì phải, nghe nói cuối tuần thì rất đông) có hậu ý cầm đèn pin đưa tôi đi ra ngoài để tắm, dù nước lạnh… Thật ra tôi chỉ cần lau mình sơ và rửa mặt đánh rang đôi chút, thay cái áo, mặc thêm áo vào mà thôi…

Về lại lều thì tiệc đã tàn, có lẽ vì cậu bạn trẻ và tôi đã đi nên tiệc tàn nhưng ông ta dù uống cũng đã rồi nhưng vẫn chưa “ đã” khoe khoang nên vẫn ấm ức. Tôi bảo ông đó đừng có ngủ gần tôi, cậu bạn trẻ nằm chính giữa… Thật ra cái sập ngủ khá chật nên tôi chỉ muốn giữ ý tứ nằm sát vào trong vách, nằm gần người trẻ tuổi đáng con mình vẫn an tâm hơn một ông già… Chờ đến khi về đến chỗ ngủ ông lại nói tiếp, chê bai tôi đủ thứ là không phải dân Phượt, dân bụi, hết chuyện ấy lại đến chuyện chú chó tôi đem theo, cãi qua cãi lại, tôi thì tính nói lí còn ông xỉn nên ông chắc chẳng biết mình nói gì chỉ khoái nói thôi… Thế là từ câu chuyện tôi cần đi tắm, đến chuyện con chó ( ông bảo tôi thích thể hiện nên đem theo chó làm người dẫn đường phải bế bồng mà thực sự thì con chó của tôi đi theo nó đi còn nhanh hơn cả người vì nó có 4 chân mà, anh chàng A Su người Mông dẫn đoàn đi có bế nó chỉ đúng hai lần , một lần là lúc leo thang, lên thang thì nó không thể leo lên được và lần thứ hai là lúc sáng lên đỉnh cũng vì đường lên thang mà chó thì không thể leo lên thang như người được… Còn hoàn toàn do Boogie –tên con chó- tự leo Fan một mình… Tôi có dặn anh A Su chăm sóc nó một chút nếu cần nhưng cứ để nó đi như vậy nó mới là leo chứ ẵm bế thì khác nào nó “ bị bế” lên Fan)….

Để câu chuyện ngắn lại thì từ cái chuyện tắm, đến chuyện chó, rồi đến chuyện tôi than phiền rác rưởi… Những lời nói của ông đưa ra làm cho tôi lượm giọng đi và xem thường một con người sống quá ích kỉ, chỉ biết cho bản thân mình ( bởi vậy tôi chán ghét thế hệ 5x, 6x ở Việt Nam hôm nay, những con người ấu trĩ)… Cuối cùng thì đến việc lá cờ của tôi… đó là vấn đề chính để cuộc vãi vã và tăng tốc thêm dù cậu bạn trẻ P đã can đan chúng tôi … nhưng vì ông bảo “ giữa cánh đồng Y Tì bà đưa lá cờ ba que lên”…thế là tôi có cớ nóng máu,… Tôi ghét kẻ nào không tôn trọng lá cờ quốc gia mà gọi lá cờ ba que…. Người có gốc và lá cờ là một phần linh thiêng cho tổ quốc, gốc gác người đó…. Tôi chưa bao giờ đụng chạm đến lá cờ sao vàng của cộng sản dù tôi không ưa nó… Nên khi ông nói lên điều đó thì cơn thịnh nộ trong tôi bùng nổ… sự bùng nổ làm tôi quên đi một điều rằng ” đừng bao giở cải với một kẻ thấp hèn … Nó sẽ kéo bạn xuống cùng nó với sự kém hiểu biết của nó ” ( không biết tôi dịch câu này có chuẩn không ) ” don’t argue with stupid people, they will drag you down to their level and beat you with experience ”

Sự cãi cọ đưa đến một cái tát là khi tôi nói “ đối với con người như ông thì thà tôi đi cùng một con chó còn hơn đồng hành với một người vô ý thức, thiếu văn hóa…” . Sau câu nói đó có lẽ ông nghĩ là tôi ví ông thua con chó… mà thật sự khi nói câu đó tôi chỉ nghĩ rằng con chó làm bạn đồng hành tốt hơn con người, tôi không ví ông là chó, nhưng có lẽ say nên ông nghĩ ngay tôi nói ông là chó ( mà thiệt tình thì tôi luôn quý động vật và xem chúng là người bạn tốt hơn con người … đúng là tôi quá đáng trong vấn đề này khôg nhỉ ? ). Nên ông xông lại tát tôi một bạt tay, cậu bạn trẻ P nãy giờ đang can ngăn chúng tôi liền xông lại ôm ông ta nhưng quá muộn vì ông ta đã xông lại tát tôi…

Từ nhỏ tôi đã là đứa con gái không phải là một phần của phái yếu, tôi từng học võ và từng lên võ đài nhiều lần để đánh nhau với nam nhi, lần nữ nhi trong nhiều cuộc thi đấu, thắng thua đều có cả, nhưng chưa lần nào có người tát tôi như thế cả… Chính mẹ tôi khi đánh tôi cũng chỉ bắt nằm rồi đánh vào mông. Nói như thế để hiểu cơn thịnh nộ trong tôi tung lên, thế là tôi cũng gạt luôn cả cậu bạn trẻ P ra xông lại tát thẳng ngay vào má ông ta một cái và đấm luôn vai phải ông ta một cái…

Dù cũng đã đánh trả lại và khinh bỉ những thằng đàn ông đánh đàn bà dù với bất cứ lí do gì… Khi tôi hét lên chửi vào mặt ông ta là một người vô học thức… Ông liền nhận ngay “ đàn ông ở Việt Nam tao đánh đàn bà là chuyện thường”. Trời ạ ! nghe xong câu này chỉ muốn xông lại đập cho thằng đàn ông này một trận. A Su nói hai chúng tôi muốn đánh nhau thì đi ra ngoài vì đã làm quá ồn những người bên cạnh không hiểu chúng tôi đánh nhau và cãi nhau chuyện gì… Tôi sẵn sàng ra khỏi đó để đánh ông ta nếu ông ta chịu đứng dậy để ra ngoài. Nói thật nhìn cái dáng người bé xíu, tay chân lèo khèo chỉ cần hai cú đá của tôi là ông đổ ngã ngửa dù rằng đã hơn hai mươi năm tôi đã không còn đụng đến võ thuật nữa… Chả cần khoe khoang gì nhưng thiệt tình là máu nóng trong người tôi đã trào ra khỏi trái tim mình nhiều lắm rồi… Bao nhiêu ngày một mình đơn độc đi quanh đất nước Việt Nam, tôi gặp nhiều người, tốt xấu có nhưng trường hợp này thật là ngoại lệ…
Nhưng cuộc cãi vã kết thúc, ông ta nằm ngay xuống và tiếng ngáy đã vang lên… Ông ta đã quá xỉn để biết mình làm việc gì… Tôi hiểu tôi đang vô lý cãi vã với một thằng say… Nằm xuống sát vào vách gỗ, không kiềm chế được tôi đã nức nở khóc, dù rằng tôi cũng đâu bị ức hiếp gì mà khóc nhưng tôi khóc vì cái tính “cả nể” của mình… Vì dù đã biết con người này không phải là người tốt để kết bạn nhưng vẫn ngồi nghe ông ấy nói cả hai ngày trời trên Y Tỳ, đã cùng đi hai ngày đường cùng từ Sapa đến Y Tỳ… Tôi trách mình đã không thẳng thừng từ chối lời rủ rê đi cùng… Hay cả nể không nói những gì chướng cái lỗ tai mình và trách mình đã để một thằng say làm phiền đến tâm hồn mình, trái tim mình… Dù là thằng say nhưng tôi ghét đàn ông cứ hễ nghĩ say là có thể nói gì thì nói và thường muốn thêm rượu để nói, để làm những điều mà khi tỉnh không bao giờ “ dám”…

Tôi ra ngồi ngoài trời lạnh khóc và nghĩ mình không thể nằm cạnh một thằng đàn ông đáng tởm như thế dù rằng đã có cậu bạn trẻ chen chính giữa… Ngoài trời lạnh nhưng tôi không lạnh chút nào mà nước mắt cứ tuôn lả chả… Cậu bạn trẻ ra ngoài lôi tôi vào và bắt tôi nằm xuống cùng nhiều lời an ủi… Phải cảm ơn con người trẻ tuổi nhưng hiểu biết này, đã nắm bàn tay tôi suốt đêm vì tôi cứ nức nở khóc… Suốt đếm tôi không thể nào chợp mắt được vì tức, và suốt đêm ấy tôi chỉ muốn giết chết người đàn ông đó. Quả thật con người tôi đáng sợ đến như thế đấy, nhất là khi bị đụng chạm đến “ chính thể quốc gia dân tộc….” mình, dù rằng người đó cũng là người Việt Nam… Tôi còn nhớ khi cãi tôi cũng đã giảng cho ông hiểu tôi không phải là Việt Kiều, khi ông nói tôi cứ nghĩ tôi có tiền là về đây khoe khoang bằng cách đem chó theo … ( thật vô lý khi nói như thế… Ôi một kẻ say, vô học thức )… Tôi liền giải thích cho ông hiểu rằng tôi không phải Việt Kiều…
Việt Kiều là khi bạn có quốc tịch Việt Nam và bạn đi ra nước ngoài ở một thời gian sau đó về lại thì bạn mới là Việt Kiều, còn tôi là người bị tước đoạt quốc tịch, bị tống khứ ra khỏi Việt Nam… Bị mất nước, mất quốc gia “tôi là người Mĩ gốc Việt… xin hiểu và cũng đừng bao giờ gọi tôi là Việt Kiều”…

Không biết tôi có phải là một con người có chứng bệnh “ khùng” khi nói đến thể chính về người Việt quốc gia và người Việt cộng sản không nữa… Nhưng cứ hễ khi nào người ta gọi tôi là Việt Kiều, tôi đều chỉnh sửa họ và nói lên điều ấy… Thiệt tình, nếu tôi cứ không kiềm chế được thì chắc tôi sẽ có ngày không được bước chân vào Việt Nam, hay hoặc tôi sẽ ngồi tù sớm thôi vì cái miệng hay “ cãi” của mình… May cho tôi vẫn còn mạng để trở về nhà bình an… Và cũng tội nghiệp cho ông anh tôi – người cộng sản “chân chính” – luôn lo lắng và luôn dặn dò khi tôi đi đừng đem những điều mình nghĩ nói “ thẳng” quá nói chuyện với người ngoài Bắc… Nếu có hệ gì ông ấy chẳng thể lo được gì cho tôi đâu…

Suốt đêm không ngủ, suốt đêm nức nở… Buổi sáng sớm tôi thức dậy vẫn tỉnh táo và xem mọi chuyện như chưa có gi sảy ra… Tôi quyết định rằng không thể để một thằng vô học thức làm phiền trái tim mình … Và tôi quyết định rằng không để mắt đến người đàn ông đó…
Sáng sớm ông ta tỉnh dậy, điều đầu tiên là nói lời xin lỗi tôi “ Xin lỗi em, tối qua anh say quá nên…” . Tôi quay mặt đi và chỉ nói đúng một câu “ ông đừng nên nói chuyện với tôi …, trước mặt tôi hình như không có ông…”…. Trong suốt quãng đường leo lên đỉnh và suốt quãng đường về lại có lúc ông ta cũng nói vài câu như bảo tôi chụp hình chung với nhau khi đến đỉnh nhưng tôi không trả lời và không xem cái con người ấy có trước mặt của mình hay không? ….

Buổi sáng ba tiếng đồng hồ leo lên được đến đỉnh Fan vất vả, mệt mỏi nhưng quá tuyệt vời khi biết mình đã leo lên được đến nóc nhà Đông Dương… Vì đi khá sớm nên sương nhiều và mây mù giăng kín nên chúng tôi không thấy núi non bao quanh, chỉ thấy như mình đang đứng trên tầng mây ấy… Một điều đáng buồn phiền là trên đỉnh chung quanh rác nhiều vô số kể… Tôi rất buồn vì điều đó… Vì tôi nghĩ những bạn trẻ Việt Nam hôm nay leo Fan không phải là dân “ thường” có nghĩa là các bạn ấy ít nhất còn trẻ và cũng đã học xong bặc trung học, hoặc đại học, những kiến thức bảo vệ môi trường của họ là như thế này hay sao?… Tôi thường không trách những bà bán hàng rong xả rác, hay những người nghèo khổ vì họ không có kiến thức nhiều để hiểu mình cần phải bảo vệ môi trường , nhưng tôi sẽ rất thất vọng khi thấy giới trẻ ở Việt Nam hôm nay dù đã có học, có văn hóa nhưng luôn thiếu văn hóa… A Su có cho tôi biết rằng cũng có những người dân được mướn lên đây để lượm rác trên đường nhưng người xả thì nhiều và người lượm thì ít…. Từng cái ủng mang để bảo vệ đôi giầy, đến cái chai nước và nhất là những vỏ kẹo giấy nhỏ được vứt ra… Nếu tôi là người đi lượm rác tôi cũng chỉ có thể lượm những chai lọ nước uống chứ bảo phải lượm từng vỏ kẹo nhỏ trên đường thì làm sao “ tôi” người được mướn muốn đi nhặt rác ( dĩ nhiên là khi nhận công việc này mấy ai là người có học thức để ý thức nhiều và kỹ lưỡng để lượm cho hết đây….?

Nên trên đỉnh Fan làm tôi buồn và thất vọng vì chỉ thấy toàn rác khi khí trời trong lành, và mây mù bao phủ như cảnh tiên… Mà cảnh tiên này là cảnh của “ tiền đồng Việt Nam”… nên đầy rác rưởi của nhiều người “ vô ý thức”….

Tôi lôi lá cờ ra và cắm trên cây tre cầm leo Fan đường cao và bảo cậu bạn trẻ chụp hình giúp mình… Cậu bạn trẻ ấy cũng xin cầm lá cờ và chụp hình cùng tôi… Nổi vui trong lòng tôi dâng trào và tôi đã xuống dưới núi với nhiều niềm vui hơn nỗi buồn vì chuyện không vui với người dần ông ấy…

Trong nhóm đi có bốn người… Cậu bạn trẻ tên P đã an ủi tôi, giúp tôi khi tôi xuống tinh thần mà tôi đã nói ở trên… Một cậu bạn trẻ nữa tên L… L là dân du học Buckley trở về nước làm việc vì cậu nghĩ Việt Nam dễ làm giàu hơn, vì nếu cậu ở lại Mĩ thì cậu chỉ là người làm công… Cậu leo núi nhiều, và cậu đã cư xử như đúng một người Mĩ… Các bạn cãi thì là chuyện của các bạn, tôi không muốn can dự vào… Tôi thích nói chuyện về leo núi, về rừng Yosemite, về SanFran trường học nhưng cậu ấy không để lại trong lòng tôi một cảm tình nào hết… Và tôi hiểu thêm một điều nữa là thế hệ 9x ngày nay ở Việt Nam phần nhiều họ chỉ muốn làm giàu, có tiền thật nhiều hơn là làm gi cho xã hội… Đôi lúc tôi thích những người trẻ thế hệ 9x này nhưng tôi nghĩ xã hội Việt Nam ngày nay cần nhiều người có học thức du học trở về quên bản thân mình để mong xã hội tốt đẹp hơn là lao đầu vào kiếm tiền… Có lẽ tôi đã khắt khe với họ quá… Tuổi trẻ bây giờ chỉ mong sau này có tiền tài danh vọng… Đó không phải là điều xấu xa… Đó là phấn đấu để sống còn ở quanh ta hôm nay mà thôi…

Tôi đã dương cao được lá cờ trên đỉnh Fansipan … Lá cờ vàng ba sọc đỏ ngày xưa hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị cũng đã dương cao khi đi đánh quân tàu… Lá cờ đầy ý nghĩa… màu vàng tượng trưng cho da vàng Đất Việt, ba sọc cho ba miền Nam, Trung, Bắc… Tôi yêu lá cờ quốc gia đó… Tôi mong một ngày chính thể có thể thay đổi và người Việt Nam ở Việt Nam sẽ hiểu ra rằng lá cờ đỏ sao vàng cờ chỉ là lá cờ theo Trung Quốc mà thôi … nó chẳng mang một ý nghĩa nào cả… Có lẽ điều đó còn rất lâu mới làm được nếu thi thể ông Hồ còn nằm đó trong bảo tàng trong lòng Hà Nội… mà điều đau buồn là quân tàu đã tàn phá đất nước Việt Nam, tại sao chúng ta vẫn cứ bám gót họ khi cả khối Đông Âu cộng sản đã tan rã ở Nga… Tượng hình Lenin, Carl Marx đã kéo sập đổ… Bức tượng Bá Linh cũng đã ngã… Vậy mà lòng người cộng sản Việt Nam không thay đổi được…

Theo dọc đường cong của đất nước Việt Nam … Mà nơi nào còn lá cờ đỏ sao vàng thì nơi đó còn nghèo đói …

Lời cuối cho cuộc hành trình leo Fan…
Lá cờ tổ quốc … “ tôi người Việt Nam quốc gia đã đến Fansipan … lá cờ vàng đã ngạo nghễ bay trên nóc nhà Đông Dương”….

Mãn Nguyện…
Back to top
 
 
IP Logged
 
macco
Senior Member
****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 283
Re: Chợ Chiều
Reply #548 - 13. Nov 2013 , 18:36
 

...

Nhớ xe Lam Sài Gòn xưa


Xe lam bắt nguồn từ tên gọi của dòng sản phẩm Lambretta của Italia, là một phương tiện giao thông công cộng phổ biến ở Việt Nam từ rất lâu, dành cho người lao động bình dân.


Đây là một loại xe khách hay xe chở hàng có cấu trúc tương tự như xe tuktuk , hiện vẫn là phương tiện giao thông phổ biến tại một số nước trên thế giới như Sudan, Bangladesh, Ấn Độ, Thái Lan...
Xe lam là loại xe thùng nhỏ có 3 bánh xe, gồm một cabin cho tài xế ngồi lái phía trước và một thùng xe để chở khách hay chở hàng phía sau.


Tên gọi này có nguồn gốc từ các dòng xe 3 bánh Lambretta FD (dung tích xy lanh 123 và 150 cc), FLI (175 cc) và sau đó là Lambro 200, 550 (đều 198 cc) của hãng Innocenti, Italy. Các dòng xe này lần lượt được nhập vào miền Nam Việt Nam từ đầu thập niên 1960 để thay thế xe ngựa thồ vẫn còn được lưu hành vào khoảng thời gian đó.

Các xe này được nhập ở dạng không đóng thùng, và tuỳ công năng chở người hay chở hàng sẽ được đóng thùng sau khi nhập. Bên cạnh đó, một số xe có kiểu dáng tương tự nhưng của các hãng khác (như Vespa...), ít gặp hơn, cũng được gọi là xe lam. Trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có 17.000 chiếc được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.

Giá một chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng nhưng đem lại nhiều lợi nhuận cho người chủ xe (theo lời 1 chủ xe: "Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết"). Đặc biệt, sau khi thống nhất năm 1975, các phương tiện cơ giới khác bị thiếu xăng hoặc thiếu phụ tùng thay thế không sử dụng được, thì xe lam được dùng làm phương tiện phổ biến rẻ tiền và bước vào thời vàng son.

Lúc đó, chỉ riêng thị xã Biên Hòa, có 6 hợp tác xã xe lam với khoảng 1.000 đầu xe đăng ký chở khách chính thức, với hàng triệu lượt khách mỗi năm, vì vậy mà có thời Biên Hòa được ví như là "thủ phủ xe lam". Sau này, xe được đem ra và phổ biến cả ở miền Bắc Việt Nam, cho đến thế kỷ 21.


Tại Việt Nam, từ năm 2004 xe lam bị hạn chế và từ từ bị cấm hẳn. Xe lam cũng được nói đến trong âm nhạc, như bài Chuyến xe lam chiều của Vinh Sử, có câu:

Trên chuyến xe lam đông người chiều nay
Nghe từng cô đơn nỗi niềm chua cay
Còn đâu một chuyến xe lam
Ngày nao mộng ước vô vàn
Nay kỷ niệm em một mình mang
Back to top
« Last Edit: 13. Nov 2013 , 18:37 by macco »  
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #549 - 14. Nov 2013 , 07:19
 
Anh Sháu wuơi, chị Đậu quân sư mời anh Sháu qua Vườn Trúc en mận nhang.
em ngộ
Back to top
 
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #550 - 14. Nov 2013 , 07:22
 

THẦY NĂM CHÉN
(Tiểu Tử )

Sau trận Tết Mậu Thân (1968) ở Huế, gia đình ông thầy thuốc Nam đó chết hết, chỉ còn lại có hai cha con. Nhà cửa tiêu tan, sự nghiệp tiêu tan, thầy không muốn ở lại cái vùng đất mà thầy cho là còn gần với quân xâm lăng miền Bắc. Thầy gạt nước mắt, dẫn thằng con trong tuổi quân dịch đi vô Nam. Thầy nói: "Ở trong nớ tuy tứ cố vô thân nhưng chắc chắn là mình được yên ổn lâu dài".

Trên chuyến xe vào Sài Gòn, ông bắt chuyện với một sư ông lên xe ở trạm Nha Trang. Thì ra sư ông cũng là thầy thuốc Nam nữa. Nhờ vậy, tâm sự được dàn trải dễ dàng. Sư ông trụ trì ở chùa Thiền Lâm Gia Định, vừa làm phật sự vừa bắt mạch vừa bốc thuốc. Sư ông nói:
- Tôi làm không xuể.
- Bịnh nhân có đông không ?
- Tùy mùa. Nói chung chung thì cũng nhiều. Với tôi, phật sự là chánh, còn chữa bịnh là phụ. Vì không đủ thời giờ nên tôi đành từ chối bịnh nhân ... Thấy cũng tội nghiệp !

Khi sư ông biết tình cảnh của cha con ông thầy thuốc Nam, sư đề nghị:
- Nếu ông anh không chê thì tôi xin mời ông anh về tá túc với chúng tôi. Mình sẽ phụ nhau chữa bịnh cho đồng bào thì thật là hoan hỉ.

Trong cảnh "tứ cố vô thân", đề nghị của sư ông như một cái phao. Ông thầy nhận lời và cám ơn rối rít. Sư ông nói:
- Đời sống trong chùa đạm bạc như thế nào chắc ông anh cũng đoán biết, không cần phải giải bày. Duy chỉ có điều này là cần nói rõ: bịnh nhân đến chùa phần đông là đồng bào nghèo, mà chùa thì không có khả năng tài chánh để chữa thí, vì vậy, mình chỉ lấy tiền thuốc thôi.
- Ngoài nớ, gặp bịnh nhân nghèo, tôi cũng làm như rứa. Đôi khi còn không lấy tiền.
- A di đà Phật ...

... Chùa Thiền Lâm nằm giữa một nghĩa trang vây quanh bởi một bức tường rào xây bằng gạch bờ-lóc không có tô và cũng không quét vôi. Nhiều nơi tường bị nứt dài, gạch bể lỗ đỗ. Dọc theo mặt tiền là mấy "tiệm" hớt tóc (Không biết gọi là gì cho đúng. Mấy anh thợ hớt tóc, trước đây hớt tóc dạo, bây giờ ... đóng đô ở đó bằng cách đóng lên tường mấy cây đinh rồi móc tấm ni-lông hay tấm vải trắng cỡ thước rưỡi bề ngang, có mấy cây trúc chống căng ra như một mái nhà. Bên dưới, đặt hai ghế đẩu - một cho khách, một cho thợ hớt tóc - và trên tường treo ngang tầm mắt người ngồi ghế đẩu là tấm kiếng cỡ hai trang giấy lớn. Trên tường cũng có viết nguệch ngoạc bằng sơn dầu các kiểu tóc và giá cả. Chiều, họ gỡ hết đem đi. Sáng, họ trương lên, ngồi đánh cờ tướng với nhau hay hút thuốc rung đùi ... đợi khách !). Cổng vào nghĩa trang, bằng sắt rỉ sét xiêu vẹo, mang một bảng gỗ đã mục nhiều nơi, lớp sơn tróc rơi để lòi sớ gỗ, nhưng cũng còn vừa đọc vừa ... đoán ra được hàng chữ: "Nghĩa trang Hội Tương tế X...". Từ ngoài ngõ chạy thẳng vô chùa là đường đất đỏ nằm giữa hai hàng cây điệp. Vây quanh chùa là mả thấp mả cao xếp hàng dài dài ...

Chùa là một ngôi nhà cất theo kiểu xưa: nền cao, nóc bánh ích, cột kèo gỗ, ba gian hai chái, hàng ba thật rộng. Không có mái cong chạm rồng chạm phụng gì hết. Mới nhìn tưởng là nhà ở chớ không phải chùa ! Biết là chùa nhờ có tấm bảng nằm dưới mái hiên: "Thiền Lâm Tự" ! Bên trong không có "năm ngăn bảy nắp đầy dẫy tượng Phật, tượng Bồ Tát sơn son thếp vàng" như mấy chùa nổi tiếng. Nhưng cũng có đầy đủ ngôi tam bảo với các vật dụng cần thiết để làm phật sự. Ở đây, đúng là một cảnh chùa nghèo. Tuy nhiên, theo lời sư ông, những ngày rằm ngày vía, phật tử đến cúng bái khá đông. Phần lớn là đồng bào ở trong vùng và những người không thích "chùa nhà giàu" - chính họ nói như vậy.

Về chùa Thiền Lâm, sư ông phân công rõ rệt: sư ông và người đệ tử lo phật sự và trông nom trong ngoài, còn cha con ông thầy thì lo phần chữa bịnh kể cả việc đi bổ thuốc. Cái chái phía bên phải xưa nay vẫn là phòng mạch, bây giờ giao hẳn cho ông thầy tự do sắp xếp. Cha con ông được cho một căn buồng ở hậu liêu, có cửa sổ nhìn ra vườn rau cải của chùa. Lâu lâu, có ai rước sư ông đi làm đám ở đâu thì cha con ông thầy lãnh phần đèn nhang cúng bái thường nhựt ...

Ông thầy chữa bịnh mát tay nên bịnh nhân càng ngày càng đông. Thầy bắt mạch, rờ trán, xem lưỡ i... rồi bốc thuốc gói từng thang bằng giấy báo. Khi trao thuốc lúc nào thầy cũng dặn: "Đổ vô năm chén nước, sắc còn một chén uống". Thang nào của thầy cũng là năm chén nước và không thang nào là không đi kèm với câu dặn dò trên. Vì vậy, bịnh nhân và người trong vùng gọi ổng là "thầy năm chén". Lâu ngày thành tên luôn, làm như thầy thứ Năm và tên Chén vậy ! Cho nên, về sau, khi nói chuyện với thầy, bịnh nhân gọi thầy bằng "thầy Năm" rất tự nhiên. Không thấy thầy ngạc nhiên hay cải chánh gì hết !

Thằng con thầy Năm Chén, tên Kiệt, thông minh học giỏi cần cù. Kiệt thi đậu vào trường kỹ thuật Cao Thắng. Mấy năm sau, chưa ra trường đã phải nhập ngũ, đi công binh. Lâu lâu được kỳ phép, về chùa giúp cha bổ thuốc bốc thuốc, giống như thời mới vào Nam với hy vọng "nơi ni mình sẽ được yên ổn lâu dài"...

... Vậy rồi có ngày 30 tháng tư 1975...

Hồi thời Tết Mậu Thân, thầy còn chạy vô Nam. Bây giờ, thầy không biết chạy đi đâu nữa. Thầy thở dài: "Đúng là cái số !". Bản chất thầy hiền hòa mộc mạc như các vị thuốc Nam của thầy, cho nên sự miền Nam mất vào tay cộng sản, thầy nghĩ rất đơn giản: "Tại ông Trời ! Nhơn bất thắng Thiên, ông bà mình dạy như rứa. Khi ổng đã định, mần răng mà cãi được !". Hồi xưa, thầy học "chữ thánh hiền" trước khi thầy học thuốc. Chữ thánh hiền đã cho thầy có cái nhìn rất khiêm tốn khi thầy chữa bịnh: "Chẳng qua là phước chủ may thầy ...". Bây giờ, sống trong nghĩa trang, ngày ngày nhìn mấy lô mả to mả nhỏ nằm im hàng hàng, thầy càng tin ở số mạng. Cái số thầy phải bỏ xứ để vô Nam, cái số thầy phải ở chùa bốc thuốc, rồi bây giờ cái số thầy "bị mất nước; sống mần răng với bọn cộng sản đây ?". Nghĩ đến đó, thầy tự an ủi: "Chừ, mình sống giữa những người chết, chắc bọn nó để cho yên ...".

Kiệt đi học tập mấy hôm rồi về chùa phụ sư ông quét dọn trong ngoài, bởi vì bên phòng mạch bịnh nhân cũng vắng. Làm như người ta lo sợ quá rồi ... quên bịnh ! Trái lại bên phía chùa thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như bây giờ người ta chỉ còn biết ... dựa vào Phật !

Thời gian sau, Kiệt tìm được việc làm ở Khánh Hội, trong một ga-ra nằm cạnh bờ sông, chuyên sửa máy xe hơi máy tàu. Thầy Năm Chén và sư ông lâu lâu đóng cửa phòng mạch, đóng cửa chùa để đi học tập chánh trị. Bởi vì "tư tưởng Mác Lê là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại", phải thông suốt để về chùa làm phật sự cho đúng ... "tác phong cách mạng" và về phòng mạch kê toa bốc thuốc cho hợp với ... "yêu cầu đấu tranh giai cấp" !

Một hôm, mấy cán bộ thành vào viếng nghĩa trang. Sau khi đi một vòng, họ khen ... hai hàng phượng đẹp ! Cuối cùng, họ nói:
- Theo quy hoạch của thành phố, nơi này sẽ là công viên cây xanh, để đồng bào quanh vùng có nơi thư giãn. Việc bốc mộ sẽ có thông cáo. Mấy người được ở lại đây để trông chừng việc bốc mộ cho đến thời hạn ấn định trong thông cáo là phải dọn đi ngay. Rõ chứ ?

Sư ông làm thinh. Thầy Năm Chén cũng làm thinh. Nói cái gì bây giờ ? Đối với những người không biết luật pháp, đối với chế độ  CS không có luật pháp, thì nói "ừ" hay nói "không" cũng đều là vô nghĩa ! Bởi vì họ không chấp nhận sự đối thoại. Ngoài ra, họ kiêu căng đến mức độ có thể viết một câu tổ bố và lố lăng quá mức mà ai cũng thấy trên đường đi Bến Lức - câu này dân chúng chuyền miệng cho nhau nghe từ mấy tháng nay và chính mắt thầy Năm Chén đã đọc khi đi bổ thuốc ở vùng đó - "Thằng trời đi chỗ khác chơi; Để cho Nông Hội tiến lên làm mùa". Thì ... còn lời gì để nói ?

Nhưng sự "làm thinh" của sư ông và thầy Năm Chén không phải chỉ đơn thuần ở chỗ "hết nước nói", mà còn là cách để tỏ thái độ của hai ông: làm thinh là khinh miệt bọn chúng, những thằng không đáng để nói chuyện, những thằng mất gốc, tổ tiên không thờ đi thờ hai thằng tây mũi lõ Mác gì gì Lê gì gì đó không biết nữa. Sự làm thinh của hai ông - sự làm thinh của kẻ sĩ - có giá trị gấp mấy lần những lời thóa mạ chửi bới, vậy mà mấy cán bộ CS lại cho là "thành quả của giác ngộ cách mạng" !

Mấy hôm sau, thầy Năm Chén kéo thằng con ra góc nghĩa trang, thấp giọng nói:
- Cha có chuyện ni muốn nói với con. Nhưng con phải giữ kín.
- Dạ.
- Con nên tìm đường đi chui đi.
- Cha nói chi lạ rứa ?
- Không có chi lạ hết. Cha không muốn con ở lại xứ ni. Mình không còn đất đứng nữa, con à.

Nói đến đây, giọng thầy nghẹn lại. Thầy không nhìn con. Thầy nhìn ra mấy lô mả. Thầy chớp mắt thật nhanh để nước mắt đừng đọng thành giọt. Rồi thầy thở dài ...

Mồ mả sao mà an bình chi lạ. Rồi sẽ không còn được như vầy nữa, nay mai ... Chế độ không để cho ai được yên, kể cả người chết !

Kiệt nhìn cha, bồi hồi. Con người đó xưa nay hiền hòa, an phận. Vậy mà bây giờ lấy một quyết định có tánh cách chống đối dầu là tiêu cực, chứng tỏ ông "chịu đựng hết nổi".
- Nghèo như mình thì lấy vàng mô mà đi chui, cha ?
- Cha nghe nói có nhiều người làm việc trên tàu. Họ đi được.
- Nhưng đó là họ đi một mình. Đi đánh cá, gặp dịp là đi luôn.
- Thì cha cũng muốn con tìm cách làm như rứa. Con cũng một mình chớ mấy mình.
- Không ! Con còn có cha nữa.
- Đừng lo cho cha. Cha già rồi. Tương lai là con, mô phải là cha.
- Gia đình mình chết hết, còn lại có hai cha con. Con đâu thể nào bỏ cha được, cha.
- Chính bởi vì cha chỉ còn lại có mình con mà cha muốn con phải đi khỏi xứ ni. Cha không muốn thấy con làm tôi mọi cho một lũ ngu dốt. Cha muốn thấy con được sống trong một xứ tự do. Có nghèo cũng nghèo trong tự do. Mà rủi có ... rủi có chết cũng chết trong tự do,con à.

Đến đây thì Kiệt không dám nhìn cha, bởi vì gương mặt héo hon đó vừa nhăn nhúm lại như một miếng cau khô. Lòng quặn thắt, Kiệt nhìn đi nơi khác.

Mồ mả sao mà an bình chi lạ. Đằng kia, hai hàng phượng trổ bông đỏ ối. Màu đỏ trong nghĩa trang, xem vừa lạc lõng vừa vô duyên, không hợp tình hợp cảnh chút nào. Vậy mà bao lâu nay Kiệt không hề để ý. Làm như phải lâm vào một nghịch cảnh, người ta mới nhìn thấy rõ những nghịch cảnh chung quanh ! Bây giờ thì đến phiên Kiệt thở dài ...

... Từ ngày có thông cáo dán trên cổng nghĩa trang, đồng bào tới lui chùa nườm nượp. Làm như thiên hạ muốn gần Phật thường hơn, đều đặn hơn, lâu hơn ... trong những ngày những tháng còn lại này. Bởi vì Phật sẽ không còn được ở đây nữa, mặc dầu - theo lời ông già bà cả trong xóm - Phật đã được an vị ở chùa này gần ba mươi năm, hồi thời chưa có nghĩa trang, hồi thời bà phủ S. chưa bán đất cho Hội Tương tế X. Họ nói với nhau: "Nhà Nước CS này ngang ngược không nể nang ai hết. Có ngày sẽ bị Trời Phật trừng phạt cho coi !".

Bên phòng mạch, bây giờ, lúc nào cũng đông người. Có bịnh nhân đến xem mạch và có những người không phải đến xem mạch nhưng đã từng uống thuốc của thầy Năm Chén. Những người này, sau khi cúng bái bên chùa, bước qua đây ngồi nói chuyện cà kê. Làm như để hỗ trợ tinh thần thầy vậy. Có người hỏi:
- Rồi thầy dọn đi đâu ?
- Biết đi mô chừ !
- Quân gì mà vô nhân đạọ Muốn đuổi ai thì đuổi. Muốn lấy của ai thì lấy. Mà mở miệng ra là "cho nhân dân, vì nhân dân".
- Tại cái số của tôi như rứa, mấy ông à. Nói mần chi ?

Bây giờ, thầy Năm Chén, sau khi trao mấy thang thuốc cho bịnh nhân, không phải chỉ nói vỏn vẹn câu quen thuộc "đổ năm chén nước, sắc còn một chén uống", mà còn dặn dò thêm phải ăn uống như thế nào, phải kiêng cữ những gì bởi vì "cái tạng ni dễ bị bịnh khi trái gió trở trời"... Thầy còn nói: "Khi mô thấy bắt đầu khó chịu thì lấy bao nhiêu lá gì với lá gì kèm theo bao nhiêu bông gì với bông gì ... sắc uống cho nó chận". Thầy làm như ngày mai thầy sắp đi xa. Và chắc đi lâu lắm, bịnh nhân cần bảo trọng lấy thân. Người nào cũng cảm động khi nhận mấy thang thuốc của thầy, mấy thang thuốc không phải chỉ có những vị này vị nọ, mà có cả tình người nằm trong đó. Chất liệu trân quí này, trong thời buổi này, thật hiếm hoi. Cho nên, khi cầm trên tay mấy thang thuốc, cử chỉ của họ bỗng trở nên trang trọng. Và người nào cũng nghĩ: "Tội nghiệp ! Người hiền hậu như vậy, bảy tám năm nay giúp đỡ đồng bào bịnh nhân ai cũng mang ơn ... Vậy mà nhà cầm quyền CS cũng không để cho yên !".

... Ít lâu sau, Kiệt được một người bạn có tàu đánh cá rủ đi chui bởi hắn đang cần người xếp máy. Kiệt về chùa cho cha hay. Thầy Năm Chén mừng rớt nước mắt:
- Rứa là lời cầu nguyện của cha đã được Ơn Trên chứng giám. Khi mô đi ?
- Mười hôm nữa.
- Ờ ... Chừ thì mình vô thắp nhang lạy tạ Trời Phật, đi con.

Năm hôm sau, bỗng thầy Năm Chén than "khó thở", "tỳ vị bất thông". Thầy không ăn được cơm, thầy ăn cháo. Cháo với chao, tương, rau luộc. Không ăn được những món cứng như dưa leo, dưa cải, củ cải muối ... những món thường dùng trong bữa cơm chay lạt ở chùa. Không thấy thầy uống thuốc. Thầy nói: "Cứ ăn cháo vài hôm là khỏi". Sư ông thương hại, an ủi: "Họ đuổi thì mình đi. Thầy lo làm chi cho sanh bịnh. Chừng hết hạn bốc mộ, tôi sẽ đưa thầy về quê tôi ở Nha Trang. Ở đó, cũng có một ngôi chùa nhỏ như vầy. Mình sẽ tiếp tục giúp đồng bào như đã làm lâu nay. Thầy yên tâm đi. A di đà Phậ t...".

Ngày thứ mười, cha con thầy Năm Chén qua chùa lạy Phật. Xong, thầy đưa cho Kiệt một gói bằng vải đỏ đã phai màu nhỏ bằng đầu ngón tay cái, cột làm nhiều gút, nói:
- Cha cho con cái ni. Con giữ kỹ trong người để hộ thân.

Kiệt cho vào túi áo trên ngực, cẩn thận gài miệng túi bằng cây kim tây, nhìn cha cảm động, nghĩ: "Cha thật chu đáọ Còn nhớ cho mình bùa ngải để hộ thân nữa".

Chia tay mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghĩa trang. Sợ người ta để ý. Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý ! Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ, chỉ có thở dài là không thấy ai để ý. Bởi vì, ai cũng thở dài hết !

... Thời gian sau, thầy Năm Chén theo sư ông về chùa ở ngoại ô Nha Trang. Thầy lại bốc thuốc giúp đồng bào nghèo. Kiệt đi chui, lọt. Rồi định cư ở Canada ...

Một hôm, sực nhớ gói bùa ngải của cha, Kiệt tò mò mở ra xem: đó là ba cái răng vàng, loại răng cấm. Thì ra thầy Năm Chén đã cạy ba cái răng vàng của mình để cho con làm của hộ thân ! Không còn răng để nhai cơm, thầy chịu ăn cháo suốt phần đời còn lại. Nhớ cha, thương cha, Kiệt cầm ba cái răng vàng trong tay mà khóc hết nước mắt ...
 

Tiểu Tử 


Back to top
 
 
IP Logged
 
tieuvuvi
Gold Member
*****
Offline


Vũ Tuyết Như - Tiểu
Long Nhi-TiênDung

Posts: 4065
Bordeaux - france
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #551 - 15. Nov 2013 , 05:17
 
...


Gửi về N trọn tình yêu của biển

Happy Birthday N




Mưa vẫn rơi trên góc phố tình nhân
Đồng hồ chuông điểm mừng anh ngày mới
Thêm một tuổi…có quà em thương gởi
Trọn mối tình biển rạng ánh xuân ngời

Tám mùa thiết tha ôm vào lòng khơi
Bao muộn phiền gian nan cùng trăn trở
Biển là em đậm sâu từ muôn thuở
Dài, rộng, thủy chung, mặn cả đời anh

Biển tận hiến cho anh những ngọt lành
Cùng sớt chia ngày tháng nhiều trống vắng
Những buồn vui hay đau thương sầu lắng
Để nụ cười anh môi nở thắm tươi

Biển khát khao đắm đuối hát cho người
Bản tình ca nồng nàn như ngọn nến
Thắp sáng tim anh khi mùa đông đến
Mình bên nhau trong hạnh phúc bình yên

Vì yêu anh biển bạc đầu thương nhớ
Sóng vỗ quanh hồn ru lời trăm năm…



PTMChoado


Tiểu Vũ Vi
15/11/13

Back to top
 

...
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #552 - 15. Nov 2013 , 10:35
 
...

...

...

Mấy hôm nay anh sáu Khiếu Long , hay anh Đậu Đen , hay OTGT đi đâu mà hông vào đây nhận quà , mở rượu Tv mang từ Napa , quà , bánh.....?
Thân kính chúc anh KL trọn năm hạnh phúc , an vui và ra vào sân trường , chia xẻ vui buồn , mần thơ lai láng... cho đời...trẻ mãi hông có ....gi..... nhang.

Em Mây Say Tv
Back to top
 

hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #553 - 15. Nov 2013 , 12:16
 
Ngố wrote on 13. Nov 2013 , 11:22:
Dị một tháng 2 bài đi anh Sháu,đọc mới phê. Grin
em ngộ

HaHaHa Thank em Ngố !
Mình cố gắng một tháng 30 bài đi nhang cho mờ mắt tiu luôn.... Cool
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #554 - 15. Nov 2013 , 12:22
 
Ngố wrote on 14. Nov 2013 , 07:19:
Anh Sháu wuơi, chị Đậu quân sư mời anh Sháu qua Vườn Trúc en mận nhang.
em ngộ


...

Đã nói lâu wúa mới về sân trường nên lạc luôn qua tiếng chim vườn trúc , bị chim choc mổ te tua luôn...
Mãi một hồi mới tìm thấy vườn trúc của quân sư...
Ái cha mận ở đâu nhiều và ngon wúa làm một bụng cho đỡ đau vì chim mổ....tiện tay sẵn nhám mang dìa một chùm để dành khi đói lòng ăn cho đỡ phê đỡ xỉu....
Back to top
« Last Edit: 15. Nov 2013 , 12:24 by khieulong »  
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 35 36 37 38 39 ... 93
Send Topic In ra