Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Chợ Chiều  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 54 55 56 57 58 ... 93
Send Topic In ra
Chợ Chiều (Read 100604 times)
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #825 - 25. Feb 2014 , 16:00
 
Tuyet Lan wrote on 24. Feb 2014 , 21:49:
Anh Hai ui ,
Mí nay bận và rộn , hôm nay thấy Mây Say cho vài đoạn "...đi ăn phờ ..." ha ha ... Tiết Lan có hơi théc méc ... Rằng ..thì ..là mà ... Phờ và hủ tíu ...khác gì a .. Wink Wink


HaHaHa anh không ăn phở nên hổng piết có khác gì với hủ tíu không nữa.... Grin Grin Grin
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #826 - 25. Feb 2014 , 16:11
 
...

Nguy cơ tử vong do cô đơn cao gấp đôi bệnh béo phì



Cảm giác đơn độc tác động xấu tới sức khỏe của những người lớn tuổi cao gấp đôi so với bệnh béo phì.


Các nhà khoa học đã theo dõi hơn 2.000 người trên 50 tuổi trong vòng 6 năm và phát hiện ra rằng, nguy cơ tử vong ở những người luôn cảm thấy cô đơn cao hơn 14% so với những người bình thường. Tỷ lệ này cho thấy, cảm giác cô đơn sẽ dẫn tới nguy cơ tử vong cao gấp đôi so với bệnh béo phì, The Guardian đưa tin.

Kết quả của một cuộc khảo sát về nỗi cô đơn của người lớn tuổi ở Anh năm 2012 cho thấy, hơn 1/5 người già luôn cảm thấy cô độc và 1/4 người cảm thấy cô đơn. 1/2 trong số những người tham gia khảo sát cho biết, cảm giác của họ về sự đơn độc càng biểu hiện rõ vào những ngày cuối tuần và 3/4 trong số đó cảm nhận rõ về sự cô đơn vào ban đêm.





Nguy cơ tử vong ở những người luôn cảm thấy cô đơn cao hơn 14% so với những người bình thường.  Ảnh: The Guardian

Các nghiên cứu trước đây chỉ ra mối liên hệ giữa cảm giác cô đơn với các vấn đề về sức khỏe từ huyết áp cao, hệ thống miễn dịch suy giảm tới nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, bệnh tim và đột quỵ. 

Trong cuốn Loneliness (tạm dịch là Nỗi cô đơn),  John Cacioppo, nhà tâm lý học thuộc đại học Chicago, Mỹ, chỉ ra rằng, nỗi đau của cảm giác cô đơn cũng giống nỗi đau về thể xác. Cacioppo cho biết, thế giới đang trải qua “cơn sóng thần bạc” khi những người thuộc thế hệ baby boomer (sinh ra trong thời kỳ 1946- 1964) giờ đây bước vào tuổi nghỉ hưu.

Cacioppo khuyến cáo: “Mọi người nên tìm cách bảo vệ bản thân khỏi sự trầm cảm và nguy cơ tử vong sớm”.

Ông cũng cho rằng, những người sắp đến tuổi nghỉ hưu nên nghĩ kỹ về việc hưởng thụ tuổi già ở quê hương của họ. “Chúng ta thường quan niệm rằng, nghỉ hưu là khoảng thời gian chúng ta rời xa bạn bè, gia đình để tới những nơi yên tĩnh. Nhưng có lẽ, đó không phải là ý tưởng tốt nhất".

Theo bà Caroline Abrahams, thành viên của Hội đồng Quốc gia người cao tuổi Anh, sự đơn độc không chỉ ảnh hưởng tới cuộc sống của những người lớn tuổi mà còn khiến họ dễ tổn thương trước bệnh tật.

“Đã đến lúc chúng ta nhìn nhận một cách nghiêm túc về mối đe dọa của tình trạng cô đơn tới sức khỏe và tinh thần của những người cao tuổi. Những hoạt động như thăm hỏi hoặc gọi điện thoại cho những người đang cảm thấy cô đơn hoặc sống cô lập là rất cần thiết để hỗ trợ người cao tuổi trong việc kết nối xã hội”, Caroline nói.

Hải Âu
Back to top
 
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #827 - 26. Feb 2014 , 10:09
 
khieulong wrote on 25. Feb 2014 , 16:00:
HaHaHa anh không ăn phở nên hổng piết có khác gì với hủ tíu không nữa.... Grin Grin Grin



Tiết lan , Ngố, cả chợ Chiều ....ơi , hôm nào chúng ta mời anh Shaw' đi ăn phở...coi có khác hay không nhang hiiiiiiiiiiiii

...

Hum nay trời San Jose mưa buồn..thúi ruột  thúi gan ,  TvMs định ra biển tự vận , nhưng 

...

Cám ơn quý ACE chợ Chiều và nhớ chạy ra tắm mưa cho đời thêm tươi

...


TVMS
Back to top
 

hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #828 - 26. Feb 2014 , 11:42
 
Cám ơn em Ngộ ghê ta....
Anh Sháo vẫn luôn thích loại nhạc êm dịu và sâu lắng này đó em Ngộ...mấy hôm rày có gì mới lạ hay không?  Cool



Dạ em ngộ khoanh tay lễ phép chào anh Sháu ạ.Có điều lạ đó anh Sháu là em ngộ có anh chàng KÉP đẹp giai, anh này trắng trẻo bảnh bao con của nữ hoàng BĂNG GIÁ, tên của ảnh thật kiêu..là anh TUYỆTHôm qua và sáng nay anh ghé thăm em ngộ, típ chiện ví ảnh cả tháng nay nên em ngộ phải theo chị Mây Say đóng kịch vở Đắc Kỷ ho gà khe khe khe, cho nên chỉ ư ứ ra dấu không hà, nay thì em ngộ hết khò khè rùi nhưng vẫn còn ê ẩm vì sau trận bão cúm (gà).Thằng bạn của en nó tên Phan Tấn Ngọc nó cứ đòi tặng em một thời kinh vãng sanh, nhỏ bạn tên Úc Oanh thì cứ email hỏi :"chết chưa mậy?" hic hic hic..
Cám ơn anh Sháu nhìu nhang.Coi dzị chứ khó đi đoàn tụ ông bà lắm hahaha  Grin Grin Grin
em ngộ Roll Eyes
Back to top
« Last Edit: 27. Feb 2014 , 08:07 by Ngố »  
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #829 - 26. Feb 2014 , 11:45
 
khieulong wrote on 25. Feb 2014 , 16:11:
...

Nguy cơ tử vong do cô đơn cao gấp đôi bệnh béo phì



Cảm giác đơn độc tác động xấu tới sức khỏe của những người lớn tuổi cao gấp đôi so với bệnh béo phì.


Các nhà khoa học đã theo dõi hơn 2.000 người trên 50 tuổi trong vòng 6 năm và phát hiện ra rằng, nguy cơ tử vong ở những người luôn cảm thấy cô đơn cao hơn 14% so với những người bình thường. Tỷ lệ này cho thấy, cảm giác cô đơn sẽ dẫn tới nguy cơ tử vong cao gấp đôi so với bệnh béo phì, The Guardian đưa tin.

Kết quả của một cuộc khảo sát về nỗi cô đơn của người lớn tuổi ở Anh năm 2012 cho thấy, hơn 1/5 người già luôn cảm thấy cô độc và 1/4 người cảm thấy cô đơn. 1/2 trong số những người tham gia khảo sát cho biết, cảm giác của họ về sự đơn độc càng biểu hiện rõ vào những ngày cuối tuần và 3/4 trong số đó cảm nhận rõ về sự cô đơn vào ban đêm.





Nguy cơ tử vong ở những người luôn cảm thấy cô đơn cao hơn 14% so với những người bình thường.  Ảnh: The Guardian

Các nghiên cứu trước đây chỉ ra mối liên hệ giữa cảm giác cô đơn với các vấn đề về sức khỏe từ huyết áp cao, hệ thống miễn dịch suy giảm tới nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, bệnh tim và đột quỵ. 

Trong cuốn Loneliness (tạm dịch là Nỗi cô đơn),  John Cacioppo, nhà tâm lý học thuộc đại học Chicago, Mỹ, chỉ ra rằng, nỗi đau của cảm giác cô đơn cũng giống nỗi đau về thể xác. Cacioppo cho biết, thế giới đang trải qua “cơn sóng thần bạc” khi những người thuộc thế hệ baby boomer (sinh ra trong thời kỳ 1946- 1964) giờ đây bước vào tuổi nghỉ hưu.

Cacioppo khuyến cáo: “Mọi người nên tìm cách bảo vệ bản thân khỏi sự trầm cảm và nguy cơ tử vong sớm”.

Ông cũng cho rằng, những người sắp đến tuổi nghỉ hưu nên nghĩ kỹ về việc hưởng thụ tuổi già ở quê hương của họ. “Chúng ta thường quan niệm rằng, nghỉ hưu là khoảng thời gian chúng ta rời xa bạn bè, gia đình để tới những nơi yên tĩnh. Nhưng có lẽ, đó không phải là ý tưởng tốt nhất".

Theo bà Caroline Abrahams, thành viên của Hội đồng Quốc gia người cao tuổi Anh, sự đơn độc không chỉ ảnh hưởng tới cuộc sống của những người lớn tuổi mà còn khiến họ dễ tổn thương trước bệnh tật.

“Đã đến lúc chúng ta nhìn nhận một cách nghiêm túc về mối đe dọa của tình trạng cô đơn tới sức khỏe và tinh thần của những người cao tuổi. Những hoạt động như thăm hỏi hoặc gọi điện thoại cho những người đang cảm thấy cô đơn hoặc sống cô lập là rất cần thiết để hỗ trợ người cao tuổi trong việc kết nối xã hội”, Caroline nói.

Hải Âu




Hihihihihi...có thiệt hong anh Sháu, cô đơn sung sướng mà Sad
em ngộ
Back to top
 
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #830 - 26. Feb 2014 , 11:48
 
Back to top
 
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #831 - 27. Feb 2014 , 08:56
 
Đời phi công (Chuyện tếu)
Phương Toàn tên thật là Nguyễn Viết Toàn, sinh năm 1948 tại Dầu Tiếng- Bình Dương, trú quán Tân Hiệp- Rạch Giá. Gia đình ông tới Mỹ năm 1981, định cư tại Garden City, Kansas. Phục vụ trong Board of Director của phòng Thương Mại địa phương (Chamber of Commerce), ông cũng là Advisory Board Member của Security Bank. Hiện nay ông là President and Owner của BT Plumbing Co. Inc. Trước 1975, ông đã phục vụ tại Phi đoàn Lôi Điểu 223 Biên Hòa và Phi đoàn Mãnh Sư 243 Phù Cát. Mới đây, nhân vụ các cựu trung uý khoá 69A họp khoá trên đất Mỹ, Phương Toàn đã viết bài “Trung Uý Nuôi Tôm”, kể chuyện nhà tù CSVN. Được em ruột là Tân Ngố, người viết bài Bên Bờ Freeway, cổ động Viết Về Nước Mỹ, lần này ông kể chuyện “đời phi công”.

***

“Đời Phi Công”

Mấy anh em tôi đều khù khờ như nhau. Tân Ngố, thằng em kế từ Cali gọi điện thoại hỏi:
- Anh có biết gì về chương trình Viết về nước Mỹ cuả Việt Báo không?
- Có nghe nhưng không rành mấy.
Nó gạ:
-Nếu có rảnh, viết bài gửi sang, nó ký tên, gửi. Lỡ trúng giải, nó ở gần, đại diện lãnh và xài dùm cho.
Tôi nói, bài đăng báo là để cho người viết hay, tôi sang đây, tối ngày đi chôn ống cống, biết gì mà viết với lách. Nó "động viên":
- Có nhiều người viết hay, nhưng hay kiểu mèo khen mèo dài đuôi thì đọc không phê. Trong nhà mình, anh được tiếng là khờ nhất. Người khờ thì hay nói thật, mình không hay nhưng mình viết thực, đôi khi ngựa về ngược. Nếu trúng giải, anh em mình cưa đôi.
Sau khi cúp phone, vợ tôi lo lắng hỏi:
- Hai anh em ông không bàn chuyện gửi tiền về Việt Nam đấy chứ?
- Không, bàn chuyện viết bài đăng báo.
Vợ tôi tròn xoe đôi mắt bồ câu quá date kêu lên:
- Giêsu Ma!
Nói đoạn, nàng đến gần rờ vào đầu tôi, bắt mạch xem có bị sốt hay không.
Không lẽ từng này tuổi, tôi lại không viết nổi một bài luận văn sao. Tôi quyết định viết bài dự thi, cho dù biết chắc là bị loại nhiều hơn được chọn.

***

Hai vợ chồng tôi lấy nhau được hơn một năm thì vượt biên, vị chi đến nay định cư ở Mỹ được hai chục năm.
Ngày mới sang đến trại tị nạn, hăm hở lắm với những tin đồn được đãi ngộ tại Mỹ. Tôi là phi công của Không quân, vợ tôi là phụ tá nghiệm chế ở Dược khoa, chắc Mỹ chẳng bỏ rơi mình.
Đúng, Mỹ nó chẳng bỏ rơi hai vợ chồng tôi khi đặt chân đến phần đất mới này. Nó cho vợ tôi cái nghề rửa chén, và cho tôi một cái xẻng để làm helper đi đào đất chôn ống cống. Mỹ còn ưu ái hơn, cho chúng tôi mỗi đứa một số quần áo ''tốt'', tha hồ lựa ở kho Salvation Army. Hai vợ chồng từ đó biết thân phận mình, vừa làm, vừa học và vừa góp tiền cắc để gửi về giúp gia đình.
Một hôm, hình như cám cảnh cái nghề mới của tôi, vợ tôi hỏi:
- Kể cho em nghe, tại sao anh lại trở thành phi công?
- Tại anh có chí tang bồng hồ thỉ, muốn làm Đường Minh Hoàng đêm đêm du nguyệt điện.
Đây là lần đầu tiên nói dối vợ, không hiểu tại sao vợ tôi lại biết, nó bĩu môi đáp:
- Xạo ke.

***

Thú thực đời phi công của tôi bắt đầu chẳng phải vì chí tang bồng, mà nó bắt đầu bằng một sự ngẫu nhiên.
Biết khả năng mình chẳng thế nào lái nổi chiếc máy bay. Vì di truyền sao đó, có thể tại ông già bị má tôi dợt cho quay mòng mòng hoài, nên cứ ngồi lên cái gì nhúc nhích là tôi nhức đầu, kể cả ngồi võng.
Tôi ở Rạch giá, thời học trò thỉnh thoảng được về thăm quê, cứ mỗi lần xe đò chạy tới Bình Chánh là tôi bắt đầu ói mửa như con gái có bầu. Nghĩ đến Không Quân, tôi cũng khoái lắm, khoái không phải vì bay bổng mà là vì khỏi lội sình. Nhưng cứ nghĩ sang Không Quân mà không bay được, thế nào nó cũng đuổi về Bộ Binh thì quê lắm.
Tôi gia nhập khóa 1/69 Bộ Binh, đang thụ huấn tại Quang Trung thì Không Quân sang tuyển người. Tôi chẳng tha thiết gì nhưng thằng Trương Phương Tuyên dụ:
- Ghi danh vào Không Quân, theo xe về Trung Tâm Y Khoa khám sức khoẻ, mỗi ngày mình chỉ cởi quần áo cho ông bác sĩ xem, nhảy tưng tưng mấy cái cho ổng đo, rồi vù ra phố chơi chiều về lại quân trường, đã lắm.
Tôi và nó ghi danh vào Không Quân và đúng như nó nói, hai thằng nhởn nhơ một tuần lễ đi khám sức khoẻ. Khám chẳng được là bao, nhưng chiều nào về ngang qua Ngã ba Chú Ía, hai thằng cũng không quên vẫy tay chào mấy nàng Kiều cho thắm tình Quân Dân cá nước.
Mãn khóa Quang Trung, tôi được chuyển về Thủ Đức học tiếp để chờ ngày ra trường. Một hôm chuẩn bị ra tuyến ứng chiến, tôi được lệnh trả quân trang để về Không Quân. Thằng Tuyên nói:
- Chỉ còn 6 tuần nữa ra trường, mang lon Chuẩn uý, bây giờ về Không Quân mang Alpha dài dài.
Hai thằng bèn hạ quyết tâm ở lại.
Tôi nói với ông Thượng Sĩ già:
- Thượng Sĩ, tôi không về Không Quân đâu.
Ông trợn mắt lên nạt:
- Giỡn chơi cha non, quân đội chứ ở nhà hay sao? Bộ muốn làm gì thì làm hả? Đến 8 giờ tối mà không ký giấy trả đồ, An Ninh nó ghép vô tội nội tuyến là bỏ mẹ.
Nghe nói tới An Ninh là tóc tôi dựng đứng đàng sau, tôi bèn trả đồ và lấy Sự vụ lệnh để về Không Quân.
Tôi được xếp học khóa 69A, toàn là những tay thông minh và gốc bự, như thằng Phan Huy Bách, ba nó là Thủ tướng Phan Huy Quát, thằng Hà Thúc Việt chi chòm ông Hà Thúc Ký, Hồ Văn Anh Tuấn con cháu Hồ Biểu
Chánh (Nó thề độc là mình không có dính dáng gì đến Hồ Chí Minh). Chỉ có tôi là bần cố nông mê muội, ngay cả ông già cũng chết ngắc ngày còn nhỏ.
Ra đến Nha Trang tôi được niên trưởng chào đón và dạy dỗ rất chí tình. Khóa đàn anh, tôi gọi là niên trưởng; khóa lớn hơn tôi gọi là đại cồ; lớn nữa thì gọi là siêu đại cồ; rồi dần dà lên đến Thiếu uý Sinh viên sĩ quan, Trung uý, Đại uý... Có một ông Niên trưởng tự xưng là Đại tá sinh viên sĩ quan siêu đại cồ niên trưởng. Hôm mới ra Nha Trang ông bắt tôi chào con Đại bàng ở cổng, ông cầm khẩu carbine lên đạn lách cách tuyên bố:
- Bắn bỏ ba mươi phần trăm không cần làm báo cáo.
Tôi hoảng hồn. Té ra tôi chọn lầm binh chủng rồi, ở đây nó coi mạng sống con người rẻ như bèo.
Ông niên trưởng hay ví von thời gian đi lính của tôi ít hơn ngày ông khai bịnh lậu ở quân trường. Ông dạy tôi về tinh thần ''thượng mã'' của phi công, ông nói ra trận, hạ máy bay địch, nếu phi công nó nhảy dù ra thì bay ngang, lắc cánh mà chào chứ không bắn pilot. Ông dạy về chữ: ''Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè''. Ông nói:
- Tất cả mọi người đeo con rồng lên ngực, sống chết có nhau, là ăn cùng mâm, ngủ cùng giường.
Thằng Hà Thúc Việt cười phá lên, ông niên trưởng đến gần gằn giọng:
- Ông này cười cái gì?
- Dạ cười ngủ chung với Tiếp Viên Hàng Không.
Ông ngạc nhiên nhìn nó, đi tới đi lui, ngẫm nghĩ, chợt ông đừng lại gằn giọng:
- Mặt ông ngu hơn thằng chăn trâu, Tiếp Viên nào cho ngủ chung mà mơ.
Nó dí dỏm đáp:
- Dạ tại niên trưởng nói ai đeo con rồng lên ngực thì mình được ngủ chung một giường.
Ông bực lắm, với giọng kẻ cả, ông giải thích:
- Có nhiều loại rồng, rồng Không Quân là rồng khạc lửa, rồng Nữ Tiếp Viên là rồng...lộn.
Đến lượt thằng Tuyên phì cười. Ông quát:
- Ông kia cười cái gì?
Nó bí thế đáp:
- Dạ cười con rồng.
Ông trợn mắt hỏi:
- Con rồng có gì mà cười?
Tuyên đáp bằng giọng Huế:
- Dạ, tại nó ... lộn.
Cả hàng quân cười ồ lên, ông thấy mấy thằng đàn em này lếu láo qúa, ông phải ra oai kẻo chúng lờn, ông nạt tiếp:
- Rồng lộn có gì mà cười?
- Dạ con rồng lộn không có gì để cười, nhưng Nữ Tiếp Viên rồng lộn thì buồn cười.
Ông tức mình bắt hai thằng móc giò lên cửa sổ, miệng hô to một trăm lần câu: ''Nữ Tiếp Viên rồng lộn không có gì phải cười''.
Tưởng như chưa đã nư, ông đến gần một thằng thấp nhất khóa, gằn giọng hỏi:
- Tại sao ông đã xấu, mà lại còn dám lùn?
Thằng Tú ngơ ngác vài giây rồi đáp sảng:
- Dạ tại ... ông già lùn.
Ông niên trưởng lại đi thêm một bài giáo khoa thư:
- Xe trước đổ thì xe sau tránh, cây đắng thì phải cố sinh trái ngọt, ông già lùn thì con phải cao, ông biết vậy mà còn ngoan cố cứ lùn. Móc giò lên đuôi bom cho tôi.
Giải quyết xong thằng Tú, ông bước sang đứa kế, ông hỏi:
- Ông tên gì?
- Khóa sinh Lê Văn Nãi, khóa 69A trình diện niên trưởng.
Ông nhìn thằng Nãi đẹp trai, cố kiếm một tội để ghép. Ông chửi:
- Gái bán Bar cũng biết ông thuộc khóa 69A, tôi hỏi tên, khai chi cả khóa. Ông họ Lê, biết Lê Long Đĩnh không?
- Dạ không.
- Mặt ông và mặt Lê Long Đĩnh giống nhau như đúc mà còn chối. Lê Long Đĩnh là vua dâm dật Lê Ngọa Triều, ông tổ mười đời của ông mà ông còn chối thì mai sau ông sẽ chối bỏ bạn bè. Từ nay mỗi lần trình diện, ông phải nói: Khóa sinh Lê Văn Nãi, cháu đích tôn Lê Ngọa Triều, ông quên thì thác cô hồn với tôi.
Ông niên trưởng chừng như thấy quá mất giờ để phạt từng thằng, ông dõng dạc tuyên bố:
- Chưa có một khóa nào ngu như khóa này, mặt ông nào cũng đần đần độn độn, tôi đếm từ một tới năm, không muốn thấy một cái chân ông nào còn đứng trên quả địa cầu.
Ông bắt đầu đếm, hàng quân như ong vỡ tổ, mỗi đứa cố gắng kiếm một vị trí để móc cẳng mình cao hơn mặt đất, không cứ là móc lên cái gì, miễn là đôi giày bốt không còn chạm mặt đất cho ông niên trưởng hài lòng.
Tôi cắn chặt hai hàm răng, sợ bật cười sẽ bị ông ra lệnh móc cẳng lên ngọn cây dương thì khốn.

***

Thấm thoắt một năm trôi qua, tôi được trở về Tân Sơn Nhứt học Anh Ngữ rồi đi Mỹ để học lái máy bay.
Đây là lần thứ ba tôi được leo lên chìếc máy bay. Hai lần trước đều ngồi bệt dưới sàn chiếc C119 thủng đít đi từ Sài Gòn ra Nha Trang và về lại, lần nào mưa cũng hắt ướt như chuột lột, lần này chiếc máy bay của hãng Braniff International không dột mà lại có ghế đàng hoàng, cô chiêu đãi viên đẹp hết cỡ, cô ta hỏi chuyện tôi nhiều, nhưng tôi không hiểu mấy. Một lần tới bữa ăn cô hỏi:
- Do you want coffee, tea or milk?
Nhìn chiếc xe cô đẩy, tôi hiểu ngay rằng cô hỏi tôi muốn ăn uống gì không.
Tôi trả lời là Yes. Cô lại hỏi:
- You want some coffee?
Tôi lập lại là Yes, với chữ S kéo dài thêm, ý nói muốn lắm.
Cô đưa cho tôi một ly cà phê đắng nghét. Mỉm miệng cười duyên, chắc cô đoán chuyến phi cơ này đụng toàn thứ thiệt, không cần phải hỏi thêm thằng Việt, cô đưa cho nó một ly sữa tươi. Cô hỏi hai đứa:
- Do you want some sugar?
Tôi tưởng cô hỏi muốn thêm cà phê không, nên trả lời rất lịch sự:
- No, thank you Sir .
Uống xong ly cà phê đắng, tôi hỏi thằng Việt, sao mầy được uống sữa, nó trả lời cũng không hiểu tại sao. Tôi nói ở quê tao sữa bột pha ra toàn cho heo ăn, người uống đau bụng chết. Nó nói, họ đưa gì thì uống nấy chứ bộ chọn được sao? Tôi than phiền phải uống cà phê đắng, nó nói chắc Mỹ nó không uống đường, hôm nay mình sang Mỹ tập uống cà phê đắng cho quen.
Sang đến Lackland Air Force Base tôi được học những từ ngữ chuyên môn Anh ngữ và mãn khóa.
Lúc này trình độ Anh ngữ khấm khá lắm rồi, ông thầy Anh văn dưới quê bị tôi bỏ xa. Dù sao tôi cũng phải mang ơn ông vì ông đã dạy cho tôi biết những câu vỡ lòng, như chữ bacon nghĩa là thịt mỡ, hot dog là thịt chó nóng hổi và ''chase the girl'' nghĩa là rượt con gái. Tôi cũng đã biết chắc chắn rằng đồng mười xu tuy nó nhỏ hơn đồng năm xu nhưng giá trị gấp đôi.
Cuối cùng ngày chờ đợi đã đến, đó là ngày chuyển trại để đi học lái máy bay ở Fort Wolter,Texas, tôi lo lắm, vì cái bệnh say gió của mình thế nào cũng bị rớt đài. Hôm đầu tiên ra phi đạo, thằng thầy cho tôi lên chiếc TH 55 nhỏ như cái trứng gà, lại không có cửa, nó bay lên tắp tít mây xanh nghiêng qua nghiêng lại phát khiếp, mỗi lần như vậy tôi phải uốn người vào trong cho máy bay thăng bằng trở lại, chỉ sợ mình rớt ra ngoài. Có nhiều lần tôi phải gồng tay lại nắm lấy thành ghế cho chắc. Sau gần một giờ biểu diễn, thằng thầy đáp xuống phi đạo, nhìn tôi cười cười. Tôi ra hiệu cho nó, ý nói phải ngừng ngay tại chỗ cho tôi nhảy xuống, bằng không tôi sẽ ói thẳng vào mặt nó. Thằng thầy đứng lại cho tôi ói. Tôi ói một cách thoải mái cho dù biết rằng cú ói này sẽ chấm dứt cuộc đời bay bổng cuả mình.
Lạ quá, sau khi đưa máy bay vào chỗ đậu, nó khen tôi chịu đựng giỏi và tiên đoán là tôi sẽ bay được. Tôi vận dụng khả năng Anh ngữ để hỏi là tại sao ói mà bay được? Nó cười cười trả lời:
Chẳng có thằng nào mà không ói ngày nó bay thử đầu tiên cả.
Tôi mừng lắm, thì ra tôi ói là do thằng này nó chơi, có lẽ cái sự quay mòng mòng của má tôi nó không áp phê ở xứ Mỹ này. Chắc là được Chúa Phật độ trì, sau gần một năm tôi thi mãn khóa và đậu. Bạn bè có đứa xì xào rằng tôi đậu vớt.
Về nước và chuyển về Không đoàn 43 Chiến thuật ở Biên Hoà. Một hôm đi hành quân ở biên giới Kampuchia, thả Biệt kích Lôi Hổ. Đang mơ mộng nhìn con suối thì đạn AK nổ như bắp rang, phi cơ tôi như cục sắt rớt cái bịch xuống sườn đồi, tôi chẳng còn nhớ tí ti gì về phương pháp đáp khẩn cấp mà trường đã dạy. Nhìn ra ngoài, thấy chiếc phi cơ móp bẹp như con cóc tiá, cánh quạt chém cây rừng đổ te tua và chiếc cánh quạt cũng te tua chẳng kém ngọn cây rừng. Hai chiếc Cobra của Mỹ hộ tống bắn rocket rầm rầm làm tôi hoảng quá, rút vội cái chốt gắn khẩu đại liên cùng thằng xạ thủ phóng ra rừng chạy một mạch. Chạy khoảng 200 mét, tôi hoàn hồn chút đỉnh và mệt quá, tôi chọn chiếc gò mối cao, căng chiếc càng đại liên ra, chuẩn bị một xạ trường để chiến đấu. Thằng VC nào vô phúc nhào lên là nhất định sẽ sinh Bắc tử Nam. Tôi thấy thiếu một cái gì mà nghĩ hoài không ra, bỗng thằng xạ thủ hỏi:
- Thiếu uý, mình không có đạn à?

Lúc bấy giờ tôi mới nhớ, thì ra vác cây đại liên mà chạy, tôi quên phéng ngay thùng đạn còn nằm trên phi cơ, tôi vội tháo lấy chiếc nòng, rồi vứt cây súng M 60 vào bụi rậm và... chạy tiếp.
Tôi còn một cây P.38 và hai viên đạn, lúc này mới thấy nguy hiểm quá chừng, hai viên đạn thì làm được trò trống gì. Ngày lãnh súng, tôi được phát 6 viên đạn, ráp đầy các lỗ của trái khế trong ổ súng, tôi thấy hơi ít, hỏi ông Phi đoàn phó, ông nói:
- Pilot đi đâu cũng chỉ đeo có một cây súng và hai viên đạn, mày có 6 viên còn ít ỏi gì. Nghe nói thế sau này mỗi lần đi bay gần bãi trống tôi hay bắn bia và cuối cùng còn lại đúng hai viên. Trên tay còn cái nòng súng M 60, tôi nghĩ, Việt cộng đội nón cối, mình lựa thế, dến cho một nòng đại liên bằng sắt lên đầu, có mà trời cứu. Nghĩ thế nên tôi vững bụng đôi chút. Cũng may lần này có hai chiếc gunship hộ tống và mấy chiếc H34 thả Lôi Hổ ở Lào đang bay về gần, xuống bốc bọn tôi về an toàn.
Thấy hai thằng Võ Trang bay vòng vòng có vẻ đỡ nguy hiểm hơn đi thả Lôi Hổ, tôi có ý định xin về bay trực thăng võ trang Gunship. Chưa kịp xin thì hên quá, xếp của tôi cho tăng cường vào Phi đội Gunship. Bay Gunship thì mệt một chút nhưng không phải lơ lửng trên ngọn cây đưa bụng cho chúng bắn.

Một hôm đi hành quân ở gần Bến Thế- Bình Dương, tôi phải yểm trợ cho Bộ Binh hành quân. Quân bạn cho biết họ ở sát bờ nam con rạch, địch ở phía bắc. Tôi nghĩ thầm, mấy cha Bộ Binh hay lừa mình, thôi thì bay cách hướng Nam con rạch hai cây số, bắn về phía Bắc, rồi cách con rạch một cây số ta vòng lại, nếu máy trục trặc thì cũng rớt lên đầu quân bạn. Tôi vào trục, nhắm mục tiêu bóp cò, rocket không nổ, tôi lượn ra mới hay mình bật lầm nút. Tôi nhào vào lại, bắn được hai quả rocket, một quả tịt, một quả nổ ở hướng nam con rạch, thì thấy đạn phòng không bay tứ phía, phi cơ bốc cháy ở bình xăng, tôi phải cho máy bay, bay ở vị thế nghiêng, cho khối lửa dạt ra ngoài, kẻo nó tràn vô phòng lái.
Theo bài bản học khi ở trường lái, nếu máy bay cháy, việc đầu tiên là phải bấm nút release cho hai bó rocket rớt khỏi thân tàu, kẻo nó bắt lửa nổ là bỏ mẹ cả đám. Tôi tính làm như vậy nhưng chợt nhớ lời ông già dặn hồi nhỏ: Đánh nhau, nếu bị thằng hàng xóm đấm vào mặt, không đấm lại được, thì lấy đất cày mà phang vào mái nhà nó, gặp thằng keo kiệt, tiền sửa mái nhà làm nó đau hơn bị đấm thiệt. Nên thay vì release hai bó rocket, tôi bèn bật nút cho nó nổ ''la phan''. Ôi thôi mười sáu quả còn lại thi nhau chui khỏi giàn phóng, quả thì nổ ở hướng bắc con rạch, quả thì bay tuốt sang bên kia sông Sài Gòn nổ ở tận mật khu Bời Lời. Tôi quẹo 180 độ và cho phi cơ nhào đại xuống con rạch gần đó.

Chiếc máy bay cày tung bùn như con cá thòi lòi phóng dưới bãi sình và tôi phóng vội ra ngoài. Cụ mẹ cuộc đời, tôi bị lừa, Bộ Binh nó cách con rạch tới hai cây số. Sau này hỏi lại, tôi được trả lời là nó sợ tài bắn cuả tôi, nếu không nói vậy lỡ tôi bắn trúng đầu nó thì sao. Mà nó hay thiệt, nếu nó ở phía nam con rạch như lời nó nói, thì quả rocket vừa rồi đã làm nó chạy té đái trong quần.
Cũng may số tôi còn lớn, thằng Gunship 2 kề kịp và bốc tôi lên an toàn, bỏ lại chiếc máy bay cháy mịt mù ven bờ suối. Về đến Phú Lợi, tôi mới hoàn hồn hẳn và nhận ra Phi hành đoàn thiếu một người. Tôi hỏi Cơ Phi là thiếu ai, nó nói thằng Xạ Thủ nóng quá phóng ra lúc còn ở cao độ hơn trăm bộ. Và cũng may mắn là nó rớt xuống cái bào và thằng C & C hành quân gần đó bốc lên rồi.
Hôm sau đơn vị cho biết, tôi sẽ được Anh Dũng Bội Tinh, công bắn mười sáu quả rocket, trúng hầm đạn VC gây nhiều tiếng nổ phụ, tôi còn được Chiến Thương Bội Tinh vì vết phỏng trên tay do quên mang chiếc găng tay chắn lửa Nomex, cộng thêm chiếc Phi Dũng Bội Tinh vì tôi bay hay quá, máy bay đã cháy mà còn lết cả mấy trăm thước mới chịu rớt.

***

Trời phú cho tôi cái tính hay sợ chết, sau lần chết hụt này, tôi nhắm xem có loại phi vụ nào ngon hơn bay Gunship hay không.

May thay, phi đoàn trưởng nói tôi có tướng ''sát phi''. Cả phi đoàn có không đầy hai chục chiếc phi cơ bay được, tôi đã nướng hết hai, ông không muốn mất thêm nữa, nên cho tôi bay những phi vụ liên lạc, và bay VIP thật là nhàn hạ.
Một hôm nhận lệnh bay cho Phủ Phó Tổng Thống, đáp ở bãi đáp VIP Air Vietnam. Tôi tưởng là mình sẽ chở tướng Kỳ hoặc bay theo chiếc Triệu Minh Vô Kỵ của ông, tôi đáp chỗ ấn định thì chẳng thấy tướng tá nào, chỉ thấy một ông già râu tóc bạc phơ cùng hai cô bé thơm như mít tố nữ, tháp tùng bằng một anh Đại uý với chiếc máy truyền tin PRC 25.
Ông Đại uý hách xì xằng này ra lệnh cho tôi đi Trà Vinh. Tôi hỏi Trà Vinh là ở đâu? Ông trợn mắt nhìn tôi như nhìn một dị nhân, có lẽ ông nghĩ sao có thằng phi công ngu như vậy. Nhướng đôi lông mày, ông nói Trà Vinh nó ở Vĩnh Bình.
Tôi tưởng rằng mình sẽ bay vòng vòng ở Quân khu 3 nên hỏi: Vĩnh Bình có gần Phước Bình không? Ông hỏi: Phước Bình nào? Tôi nói Phước Bình ở gần núi Bà Rá trên Phước Long.
Ông chán đời nói: Mình đi Vùng 4. Tôi nói là không có bản đồ đi Vĩnh Bình ở Vùng 4 vì tôi hành quân ở vùng 3 Chiến thuật, ông nói cứ bay đi rồi ông chỉ.

Tôi bay xuống Vĩnh Bình, ông liên lạc sao đó, Tỉnh trưởng ra đón vào tòa hành chánh, để lại tôi và hai em bé xinh xinh chờ ở phi trường.
Tôi hỏi:
- Hai cô đi đâu mà xuống đây?
- Dạ em đi ăn giỗ ngoại.
Bây giờ thì tôi biết là phi vụ cuả tôi có nhiệm vụ đưa hai cô gái về quê ăn giỗ ông ngoại.
Chiếc xe Jeep cuả tỉnh chạy ra chở thêm mấy người nữa, có ông già búi tó, có bà mặc bà ba. Ông Đại Uý lại ra lệnh cho tôi:
- Mình đi Chợ Lách.
Tôi lại hỏi:
-Chợ Lách nó ở đâu?
Ông chán nản nhìn tôi và lập lại câu cũ:
- Bay đi rồi tôi chỉ.
Ông khoác tay chỉ tôi bay về hướng Vĩnh Long, qua con sông Mỹ Thuận, rồi vòng vòng một hồi, ông chỉ một con sông, bảo tôi theo đó mà bay. Đến một con rạch nhỏ, ông dòm xuống một xóm làng và bảo tôi đáp xuống một con đê, gần đồn Nghĩa Quân. Ông ra lệnh:
- Tắt máy rồi mình vào đây ăn giỗ, chiều về.

Bốn thằng Phi Hành Đoàn tụi tôi nhìn nhau, tôi không dám để chiếc máy bay nằm đây cho Nghĩa Quân coi để vào ăn giỗ, sợ vợ nó xúi hút xăng về nấu rờ sô hoặc bỏ muối vào bình xăng chút ra đề khó nổ. Tôi năn nỉ ông cho bọn tôi về Mỹ Tho hay đâu đó để kiếm cơm bình dân mà ăn. Ông nói đi đâu thì đi 4 giờ trở lại đón Phái đoàn. Tôi bực mình cho phi cơ bay về Vĩnh Long đáp xuống bãi nổi ở bờ sông trước dinh Tỉnh trưởng. Một anh Địa Phương Quân ra đuổi, nói bãi đó dành riêng cho tỉnh trưởng, thằng Cơ Phi cương ẩu:
- Tỉnh Trưởng lớn bằng Phó Tổng Thống không? Phi cơ này của phủ Phó Tổng Thống.

Anh Địa Phương Quân chạy vào trong, lôi ra một anh Đại Uý, anh này khúm núm như tôi là Phó Tổng Thống vậy. Anh hỏi tôi cần gì, tôi mượn một xe Jeep đi ăn cơm. Cơm xong tôi phanh ngực áo bay, tụt phẹc ma tuya tới gần háng cho mát, giăng võng nằm ngủ. Ông Đại Uý thỉnh thoảng ra dòm chừng, có lẽ ông thắc mắc, sao Phi hành đoàn của Phó Tổng Thống mà quá bình dân và xấu trai như vậy. Gần bốn giờ chiều, trở lại Chợ Lách đón phái đoàn. Hôm sau kể chuyện lại cho thằng Tuất nghe, nó trợn mắt:
- Mày điếc không sợ súng, vùng đó tụi tao ít thằng nào dám la cà vào, bay thấp thì AK nó bắn, bay cao thì hoả tiễn tầm nhiệt SA7 nó chào.

Tôi ngẫm nghĩ, phi vụ nào cũng nguy hiểm cả, như thế làm sao sống nổi cho đến ngày biết yêu. Tôi hỏi ông Phi đoàn Trưởng có phi vụ nào đỡ nguy hiểm hơn không, ông nói:
- Có, ở ngoài Phù Cát bay đỡ nguy hiểm hơn, vì toàn là cát và nước biển, có rớt cũng rớt êm êm.
Thực ra ông chỉ nói chơi thôi, vì tôi là thằng cuối cùng luân phiên thuyên chuyển sau bốn năm ở phi đoàn. Tôi ra Phù Cát, an toàn thật, vì thời điểm này Mỹ cắt viện trợ, một tháng chỉ bay vài phi vụ, còn lại là chuyên học nhảy đầm và luyện Tae Kwon Do.

Đến hôm di tản chiến thuật về Nha Trang, tôi đang uống cà phê ở Câu lạc bộ thì nghe súng nổ tứ tung, chạy ra ngoài thấy lính Không Quân chạy đầy phi đạo, tôi vội chạy ra chiếc phi cơ cuả mình, còn cách khoảng 20 mét thì thấy nó tự động vọt lên trời, bên trong đen ngòm là người. Quýnh quá, tôi vòng ngược trở lại, thấy một chiếc phi cơ cũng đầy là lính, trên ghế lái có một anh mặc đồ bay ngồi đó, chiếc ghế trưởng phi cơ còn trống, tôi phóng lên ngồi, cả phi cơ đều nhìn tôi. Tôi hỏi ông phi công:
- Vọt đi chứ cha, nó tràn ngập bây giờ.
Anh phi công nói:
- Em bay không được.
Tôi vội chụp cần lái, mở máy, cho phi cơ vội vọt lên trời và theo đoàn phi cơ hướng về Nam, đáp xuống Tân Sơn Nhất. Tôi hỏi ông phi công ngồi bên trái:
- Ông là phi công gì mà không biết bay?
- Dạ em chưa ra trường, với lại hôm nay máy bay nhiều quá, mà em thì không có Check list để mở máy.
Đó là phi vụ cuối cùng cuả tôi, nó chấm dứt cuộc đời bay một cách vô duyên, có lẽ cũng giống như nó đã bắt đầu cuộc đời bay bổng vô lý cuả tôi. Nó không bắt đầu bằng mộng mây trời và cũng không kết thúc bằng những chiến công oanh liệt.

Phi công của Không Quân toàn là những anh hùng, những người hào hoa và bay bướm, không hiểu tại sao lại đọa ra một thằng như tôi, vừa cù lần vừa dấm dớ. Hơn 5 năm khoác chiếc áo bay, tôi chẳng làm được cái gì nên tích sự, ngoại trừ lừa được một người con gái khờ, đó là má bầy trẻ của tôi bây giờ. Cho tới nay bà vẫn tin là tôi ngon lắm, hơn hẳn những thằng phi công khác, cho dù cứ mỗi lần tôi gáy, thì theo thói quen, bà vẫn đồng ý bằng câu trả lời cũ ''xạo ke''.
Hiện nay đã ''An cư lạc nghiệp'' tại Mỹ, tuy cũng rất cùi đày chẳng kém ai, nhưng vào cuối tuần, tôi cũng hay la cà ở quán cà phê nghe anh em bàn chuyện thế sự.

Quán cà phê chỗ tôi ở, có đủ mọi chuyện dài ''Nhân dân tự vệ'', từ những ông đội đá vá trời một thuở, bây giờ làm Lã Vọng ở nhà ăn trợ cấp, đến những người biết quá nhiều nghề, chẳng nơi nào xứng đáng cho ông làm, bèn đi thụt bi da chờ thời. Tôi biết mình từng là pilot xạo ke thủa nọ, không dám gáy nồ trước đám đông, chỉ ngồi nghe kể chuyện thế thái nhân tình.

Hôm qua, có một ông sau khi kể thành tích long trời lở đất, thấy tôi ngồi im như Bụt, ông hỏi:
- Thế chú ngày xưa làm gì?
Bản tính bần cố nông của tôi tự nhiên vùng lên, không tự chế được mình, tôi gáy:
- Bay cho Phủ Phó Tổng Thống.

Cả quán bi da quay lại nhìn tôi, có nhiều câu bàn tán nhưng một câu tôi thấy thấm thía nhất do một anh thanh niên nói: “Xạo ke.”

Chuyện đóng góp vào cuộc chiến của tôi không có gì đáng ghi vào công trận, mà toàn là những chuyện làm mất mặt pilot và binh chủng. Tôi chỉ mong các phi công của Không lực thứ lỗi cho vì tôi bắt đầu nhận ra chân lý: ''Nhận cái dở mình có, hay hơn đánh bóng cái hay mình không có''.
Tuần rồi dự lễ ra trường của đứa con gái, nhìn lên câu khẩu hiệu mà lớp 2001 dùng làm kim chỉ nam cho cuộc đời tương lai của chúng, tôi suy nghĩ mãi. Câu nói rất giản dị của Tony Arata: 'I will do my dreaming with my eyes wide open and I will do my looking back with my eyes closed''.

Tuy phải lưu vong ở quê người, ngày ngày đóng vai thằng phu ống nước, kiếm đồng bạc nuôi con ăn học, khó có hy vọng trở về quê cũ cầm lại cần lái chiếc trực thăng, tôi vẫn cầu mong sao, kiếp sau nếu có làm người, tôi sẽ cố gắng trở thành một phi công đàng hoàng hơn để xứng đáng với lời hát: ''Phi công ra đi lướt trên ngàn mây gió''.

Tôi cũng mong sao tập thể phi công không buồn lòng khi có một thằng ''Pilot ke'' dám kể chuyện ''Xạo ke'' mà tỏ ra chẳng ''ke'' gì về dĩ vãng, ở cái mảnh đất tạm dung này. Thật là đa tạ, đa tạ.

Phương Toàn



Back to top
« Last Edit: 27. Feb 2014 , 08:57 by Ngố »  
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #832 - 27. Feb 2014 , 08:58
 
Người đàn bà tuổi Ngọ
VB: Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006. Cư trú và làm việc tại miền Bắc California, cô luôn vui vẻ tiếp tay mọi sinh hoạt bạn hữu. Một số bài viết khác của cô được ký tên Huyền Thoại. Nay hai bút hiệu hợp nhất, thành một tác giả thân quen của sinh hoạt Việt Báo. Sau đây là bài viết mới của cô, trích từ báo xuân Việt Báo Tết Giáp Ngọ 2014.

* * *

Không biết có phải vì chị sanh năm con ngựa hay không mà cuộc đời chị lúc nào cũng ôm đồm hết chuyện này sang chuyện khác. Chị là con đầu, và khi cô em thứ hai ra đời, chị đã sáu tuổi, cái tuổi có thể cho mẹ sai vặt. Chẳng hạn như, " Con lấy cho mẹ chai sữa trên bàn", " Con đem cái khăn này treo lên mắc cho mẹ", hay" Con chạy qua nhà dì Bích xin cho mẹ vài củ hành". Đại để là những chuyện nhẹ nhàng mà chị rất thích được mẹ sai. Chị đang tập làm người lớn, vì theo chị, người lớn có uy và ai cũng phải nghe lời.

Rồi mẹ bỗng mắn đẻ, cứ vài ba năm cho chị thêm một đứa em, tổng cộng tất cả tám chị em. Đứa em gái út ra đời là lúc chị bận rộn hơn bao giờ hết.

Chị 16 tuổi, đang học lớp 11, chuẩn bị thi tú tài. Dạo mới có hai ba con, bố mẹ chị còn mướn người làm, với đồng lương công chức hạng trung của bố. Mẹ chỉ ở nhà nuôi con và kiếm chút tiền tiêu vặt bằng cách chơi vài bát hụi nhỏ với bạn bè hoặc bạn đồng sở của bố. Nhưng khi người con thứ năm chào đời thì mẹ cho chị người làm nghỉ việc vì số cung vẫn thế mà số cầu càng ngày càng tăng. Người làm nghỉ, chị phải từ giã mái trường nội trú êm đềm trong thành phố để về nhà phụ mẹ làm việc vặt. Chị đi học bằng xe đạp. Mỗi sáng, trước khi đến trường, chị dậy sớm giặt hai thau quần áo cho cả nhà rồi để đó cho mẹ phơi khi nắng lên. Giặt giũ xong, chị phải bơm đầy hồ nước. Cũng may là nhà chị có giếng nước với chiếc máy bơm nửa ngựa. Nhiều hôm máy bơm trục trặc, chị phải kéo nước bằng tay, mệt lả người. Kéo được một phần tư hồ là đã đến giờ đi học

Chị đi học theo chương trình bán nội trú. Có nghĩa là chị ăn và nghỉ trưa tại trường. Đó cũng là một cố gắng đáng kể của bố mẹ, tránh cho chị phải về nhà ăn trưa rồi lại vội vã trở lại trường trong những ngày mưa to gió lớn hay những hôm nắng hè gay gắt. Buổi tối về nhà, chị cho các em ăn uống, tắm rửa cho những đứa bé trước khi lên gác học bài, chuẩn bị cho năm thi quan trọng. Dù phải làm chuyện nhà mà cuối cùng chị cũng đậu tú tài, dù chỉ đậu bình thứ. Chị vui mừng khi bố mua cho chị chiếc Honda dame mầu xanh, một phần thưởng chị không dám mong đợi. Nhớ lại những lúc còn đi xe đạp, gấu quần chị hay bị xích xe nghiến, rách te tua. Mẹ bảo chị phải lấy giây thung cột hai ống quần lại. Chị không làm theo lời mẹ vì trông nó dị hợm và... quê mùa làm sao. Mất đi vẻ thanh tao của người con gái có gương mặt... dễ thương. Chị biết chị dễ thương vì nghe mấy người con trai nói với nhau như vậy.

Giòng đời êm đềm trôi... Chị thi đỗ tú tài hai. Chị có vận may trong đường học vấn thi cử. Thi đâu đậu đó, dù không đậu cao như chị muốn. Chị đã có bạn trai đang học năm thứ hai Văn Khoa... Nên chị cũng ghi danh học theo ngành của người yêu. Chiến tranh lúc đó bắt đầu leo thang dữ dội.

Không ngày nào không nghe về những trận giao tranh ghê hồn, những trận pháo kích thảm khốc, và những con số thương vong đáng sợ.

Lúc này Bố đã về hưu. Mẹ sang lại sạp bán tạp hóa ngoài chợ, lợi tức chẳng là bao so với giá sinh hoạt leo thang. Chị buồn khi thấy mẹ ưu tư, bố trầm ngâm. Đứa em gái kế chị đã đến tuổi dậy thì, đã biết thích quần áo đẹp để không thua bạn bè cùng trường cùng xóm. Chị biết đã đến lúc chị phải phụ bố mẹ lo cho đàn em. Chị không muốn học lên cao trong khi bố mẹ phải tính toán chi li từng đồng. Lòng chị nao nao buồn khi những bữa ăn bắt đầu nhiều rau hơn trước, và những món thịt cá đã bắt đầu thưa dần trong tuần. Gia đình không còn những buổi đi ăn kem dưới phố... Xi nê đã trở thành những trò xa xỉ... Một hôm anh bạn cùng lớp chạy đến tìm chị, cho hay chỗ anh đang làm cần người giỏi tiếng Anh. Chỗ làm của anh là chi nhánh của tòa đại sứ Mỹ tại Sàigon, và công việc của anh là một thông dịch viên.

"Có dám đi làm không", bạn chị hỏi, vì thời điểm đó, xã hội không mấy khoan dung với những người đàn bà con gái đi làm sở Mỹ. Người ta nhìn những người đàn bà làm cho Mỹ bằng ánh mắt khinh bạc, làm như ai cũng là gái bán bar hay bồi phòng trá hình... Chị phân vân, chưa dám quyết định, Bạn nhắc nhở, đừng để lâu, rủi họ kiếm được ai khác thì uổng lắm. Lương gấp ba, gấp bốn lần lương giáo sư của bọn mình, đâu có ít.

"Lương gấp ba, gấp bốn lần lương giáo sư" cứ văng vẵng trong đầu chị từ lúc đó. Hèn gì mới đi làm có mấy tháng mà bạn chị đã sắm Vespa Italie mới cáo chỉ! Buổi chiều, gặp ngưòi yêu, chị đem chuyện đi làm ra hỏi. Người yêu nhìn chị nghiêm khắc:

- Ba má anh không thích con gái làm sở Mỹ. Tại sao em không đi dậy học? Nghề đó ai cũng nể.

Chị buồn bã nghe anh nói. Gia đình anh khá giả, ba má anh có đại bài gạo, làm sao anh hiểu được hoàn cảnh sa sút khó khăn của gia đình chị? Chị đã 18 tuổi, chẳng biết làm gì ra tiền để giúp đỡ bố mẹ và đàn em 7 đứa. Chị bảo anh:

- Em cũng biết như vậy, nhưng dậy học cũng đâu có ngay được. Còn phải thi cử, chờ đợi lâu la.

Anh dứt khoát:

- Em đừng đi làm cho Mỹ. Anh không thích có vợ làm sở Mỹ.

Buổi tối chị kể chuyện người bạn cho bố mẹ nghe rồi xin ý kiến. Mẹ ngần ngại:

- Người ta cười cho. Mình con nhà tử tế, ai lại đi làm sở Mỹ!

Mẹ thở dài. Xã hội thượng vàng hạ cám, đục trong khó phân biệt, khó giữ gìn. Bố ngập ngừng:

- Nhà mình cũng chưa đến nỗi nào để con phải mang tiếng. Thiên hạ thường vơ đũa cả nắm, con không nên vội vàng. Nhất là con đang quen với Khoa. Sợ người ta khinh mình, không cho nó đi tới.

Bố mẹ thở dài. Chị cũng thở dài. Đêm đó, chị trăn trở rất lâu. Rồi chị quyết định. Chị không thể để bố mẹ vất vả thêm nữa. Với gia cảnh hiện nay, chị nghĩ chị học đến đây kể cũng tạm đủ. Chị phải để phần cho các em, nhất là ba thằng em trai đang tuổi ăn tuổi học. Chị phải nắm lấy cơ hội có một không hai này.

Ba hôm sau, chị tới chi nhánh tòa đại sứ theo tiến cử của người bạn. Chị thi đậu với số điểm cao, cả thi viết lẫn thi vấn đáp. Ông chủ sự thấy chị giỏi tiếng Anh liền cho chị chức vụ bí thư kiêm phiên dịch, với số lương ngoài sự mong đợi của chị lẫn anh bạn. Chưa bao giờ biết sử dụng máy đánh chữ IBM, chị được sở cho đi học đánh máy và hệ thống lưu trữ hồ sơ trong một tháng với lương chính thức. Chị như trên trời rớt xuống, không dám tin vào những chuyên đang đến với mình. Chị bảo bạn:

- Mình có nằm mơ không nhỉ? Sao tư nhiên có nhiều tiền thế? Bạn thử nhéo mình xem mình có biết đau hay không?

Người bạn cười. Bạn không nằm mơ đâu. Nhưng đời là một giấc mơ, một giấc mơ dài với những buồn vui lẫn lộn. Khi tỉnh cơn mơ cũng là lúc mình giã từ tất cả...

Chị chia tay người yêu từ đó... Mối tình đầu của chị đã bị cơn cuồng phong thời đại cuốn ra biển khơi. Chị buồn, rất buồn. Chị gõ phím trên máy đánh chữ như gõ vào quan tài của trái tim mình. Chị thổn thức trong âm thầm. Chị khóc trong đêm đen để bố mẹ và đàn em không ai chứng kiến.

Những đồng tiền chị kiếm được không hoen ố mà sao chất đầy ly tan, đổ vỡ. Chị tìm vui qua những ánh mắt chan hòa hạnh phúc của đàn em khi cùng chị đi mua sắm. Chị ấm lòng khi mẹ hết băn khoan tính toán những chi tiêu hằng ngày. Chị mãn nguyện khi bố lại được uống những chai bia lạnh, được đi khám bệnh tại bệnh viện Grall như dạo trước. Chị sung sướng nhìn tủ lạnh lại đầy thịt cá như xưa. Chị mất người yêu, nhưng đem lại được nắng ấm trong gia đình mình. Những tia nhìn ảm đạm đã không còn trên gương mặt già nua của bố nữa. Chị vui trong cô đơn. Chị buồn trong tiếng cười.

Rồi tình yêu cũng tìm đến với chị một lần nữa. Anh là một cánh chim trong khung trời lửa đạn. Anh tung cánh gào thét, nhả những làn khói hừng hực thiêu hủy kẻ thù trong lùm cây bụi cỏ. Trong mắt chị, anh là sự oai hùng, là nét ngang tàng và phóng khoáng. Anh đến với chị hồn nhiên, tự tại.

Nhưng chim trời một ngày tháng tư đã gẫy cánh theo vận nước điêu tàn. Con đại bàng mắc bẫy nằm co ro trong cũi với xiềng và xích. Chị phải bỏ nhà bỏ của chạy về ẩn náu trong mái gia đình ruột thịt. Tài sản của chị bị bên thắng cuộc phong tỏa, cho là của cải của nhân dân, nay nhân dân lấy lại. Chị chỉ còn chiếc nhẫn cưới và vòng ngọc trai mang trong người. Nhẫn và vòng, chỉ mấy tháng sau anh đi tù, chị đem ra chợ trời Huỳnh Thúc Kháng bán tống bán tháo cho người chuẩn bị đi Tây với quốc tịch Pháp... Lúc đó chỉ có vàng là còn có giá. Hột xoàn, cẩm thạch hay hạt trai coi như đồ bỏ, bán được là may. Chị đau xót nhìn của cải của mình qua tay người lạ như những thứ đồ chơi rẻ tiền.

Có được ít tiền, chị mon men đứng chợ trời tìm kế sinh nhai. Cuộc đời chị lần đầu tiên nghe chửi thề, nhiếc móc. Chị sống trong cảnh vàng thau lẫn lộn. Bên những người phụ nữ đã từng có thời gian ngồi trên nhung lụa, bên những tiểu thư khuê các nay thành tấm cám tìm đường nuôi cha trong tù. Chị lăn lóc bên những kẻ đá cá lăn dưa, cố né tránh để đừng bị xây xát. Chị nuốt nước mắt ôm vào mình những mảnh áo quần bần thỉu hôi hám khi bị công an rượt đuổi bắt bớ. Chị phải đứng đó, cam chịu, vì chị phải kiếm mồi về mớm cho đứa con vừa biết nói sõi. Chị phải gồng mình cam chịu, vì bố chị cần thuốc men cho những cơn đau tim nhức nhối. Chị phải tiếp tay với mẹ chị trả tiền củi lửa gạo nước điện đùng... Mấy đứa em bị lùa đi học yêu bác yêu đảng. Tối về nhà, mệt nhoài, nghe đám nhỏ nhi nhô "như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng", chị bỗng nổi cơn điên, thét lên "Im ngay, im ngay. Tụi mày cầm giao giết tao chết đi rồi hãy hát, hãy hò. Tụi bay vô lương tâm vừa vừa thôi kẻo tao đứt gân máu tao chết tại chỗ cho tụi bay coi"... Đám nhỏ sợ hãi nín thinh. Chị vùi đầu trên gối khóc như khóc cái chết của chính mình.

Nhiều tháng sau ngày anh lên đường "cải tạo" chị cũng chưa biết chính xác chỗ anh và bạn bè anh đang bị giam giữ. Những người vợ tìm nhau hỏi thăm tin tức chồng. Rồi rủ nhau đi tìm, dù chẳng biết chỗ mình tìm có chính xác hay không. Cuối cùng chị cũng tìm được nơi anh bị giam theo sự tiết lộ của mấy người tài xế xe đò. Đó là hai dãy nhà tôn, một doanh trại cũ của quận đội Cộng Hòa ở Phú Lợi tỉnh Bình Dương.

Chị mặc bộ bà ba vá víu, đội nón lá, bế con đến nhà một dân địa phương có lòng. Bà chủ nhà cho chị mượn đôi quang gánh, giả dạng người đi mua giấy báo cũ, đi loanh quanh ngoài hàng rào trại tù. Anh nhận ra chị, vội chạy ra đầu nhà, thảng thốt kêu lên tiếng "em" ngắn gọn. Chị nhìn anh nước mắt lưng tròng mà hai chân vẫn phải đi tới, vì bà chủ nhà căn dặn, đừng dại dột ngừng chân kẻo người bên trong bị phạt. Chị lưu luyến, quanh đi trở lại hai ba vòng. Anh bên trong lính quýnh đi tới đi lui. Bỗng từ phía vọng gác có người la lối:

- Chị kia! Chị kia! Đứng lại!

Chị sợ quá, tim muốn ngừng đâp. Chị không sợ cho chị, mà sợ cho anh, không biết những tai vạ gì sắp đổ xuống đầu... Tên vệ binh vác súng chạy đến, quát tháo om xòm, dọa bắn chị nát óc, rồi đem chị giam trong chòm canh. Tên mang quân hàm bốn sao bảo chị nói láo không đúng sách, đi mua sách báo gì mà đi tới đi lui năm ba lượt, mắt láo liên ngó ngược ngó xuôi. Vì chị không thành thật khai báo, họ sẽ giam hai ba ngày chờ điều tra. Nghĩ đến con đang gởi bà chủ nhà, chị lo lắng, không biết ngưòi ta có tận tình coi sóc nó hay không. Chị bị giam trong chòi gác cho đến chiều, khi chuyến xe đò cuối cùng về thành phố đã rời bến. Họ thả chị ra lúc đó là cố tình trừng phạt chị. Không còn xe đò, chị long đong khốn khổ kiếm cách về nhà. Bà chủ nhà tốt bụng kiếm cho chị một người xe ôm, đi đường tắt ra ngoài lộ để cho đám vệ binh không nhìn thấy. Xe honda đi trong mương rẫy, hất hai mẹ con chị lên xuống liên tu bất tận trên những mỏm, những mô.

Hình phạt hôm đó không ngăn được lòng thương nhớ của chị dành cho anh. Chị và mấy người bạn thỉnh thoảng đón xe đò đi thăm chồng bằng những ánh mắt từ xa. Những đồng tiền lén lút bay qua hàng rào khi tên quản giáo không lẩn quẫn đâu đó. Mãi mười tháng sau ngày ra đi, anh mới được phép chính thức thăm nuôi. Chị gồng gánh xách mang đem thực phẩm đến giúp anh hồi sức. Những bao quà nặng trĩu anh không được ra nhận. Người ta cho đại diện ra lãnh đem vào để phân phối tới tay người tù. Anh đứng trong hiên xót xa nhìn vợ nhìn con. Bên ngoài chị lưng tròng nước mắt thấy anh ốm yếu gầy còm. Những chuyến đi thăm nuôi của chị kéo dài sáu năm cơ cực. Anh phải di chuyển liên tục, từ Bình Dương đi Kà Tum, Phước Long, Bù gia Mập rồi lại trở về Suối Máu Biên Hòa. Chị và con nối gót theo anh không biết mệt, cùng bạn bè ngủ tại bến xe chờ sắp hàng mua vé lúc hai, ba giờ khuya. Đến nơi còn phải băng rừng, vượt suối trên những chiếc xe thồ cọc cạch, những chuyện xe ôm lắc lư. Chuyện kể về những kẻ tán tận lương tâm giết hại những người vợ trẻ đi thăm chồng không làm chị nản lòng. Chị khấn Chúa cầu Phật cho chị tai qua nạn khỏi. Đấng trên cao động lòng trắc ẩn, đem lại chị những kẻ thiện tâm giầu lòng nhân đức, nên chị luôn luôn đi đến nơi về đến chốn bình an.

Những năm về sau, anh được phép ra nhận quà tận tay. Nhìn anh tả tơi chị nghe lòng mình nhói buốt. Hai vợ chồng trao nhau những tia nhìn đắm đuối nhưng chẳng dám động chạm tay chân trước những con mắt cú vọ xét nét. Phận con người bỗng thấp kém như nô lệ ngàn năm trước. Bao nhieu vất vả cơ cực chỉ đổi được nửa tiếng phù du bên nhau. Chị trở về thành phố tiếp tục ngược xuôi chợ đời, đánh đổi nhan sắc cho nắng mưa để kiếm những bữa ăn khoai nhiều gạo ít cho gia đình và cho những bao quà nặng tình nghĩa cho anh mỗi tháng. Mẹ cũng phải theo chị ra đường bán buôn. Hai người đàn bà, hai thế hệ một gánh nặng chia nhau. Nhiều đêm nhìn con say ngủ chị ước gì hai mẹ con được cùng nhau chắp cánh lên trời. Rũ bỏ mọi phiền muộn, mọi nhọc nhằn. Chị không nhìn thấy tương lai. Chỉ thấy bóng tối mịt mù. Không hy vọng, chẳng mong chờ. Xong ngày nào biết ngày đó. Nhưng chị cũng không có can đảm để chấm dứt tất cả. Sự sống trong nỗi chết vẫn còn một sợi giây vô tình ràng buộc không ai có thể tháo gỡ. Đó phải chăng là bản năng sinh tồn của con người.

Cuối cùng, anh cũng được trở về sau hai lần đổi tiền và bốn, năm lần chuyển trại. Mỗi lần đổi tiền, chị mất thêm một số vốn. Mỗi lần anh chuyển trại, chị già thêm ít tuổi. Vì lo âu sợ hãi những chuyện không may đã xảy đến cho anh.

Nhưng niềm vui đoàn tụ không ở lại với chị lâu hơn vài tháng. Chim đại bàng xổ lồng, sẵn sàng bay ra biển khơi tìm khung trời bao la rộng lớn. Chị hy sinh tìm cách cho chim chắp cánh vươn lên, hy vọng chim có đà về tha con đến tổ. Nhưng hình như số chị không được may mắn trọn vẹn. Bên trời mới thênh thanh, chim lạc đường mất dấu. Hình ảnh chị gầy gò, đen nhẽm vì mưa nắng làm anh không thích nhớ. Anh tìm vui bên người đàn bà mới trong thiên đường chị góp sức trao anh. Chị giận, nhưng cam chịu. Chẳng qua đó là cái số của chị. Ngày xưa lúc cưới chị, biết chị tuổi Ngọ, anh cười âu yếm, "Em là ngựa chứng, anh là nài giỏi". Ngựa chưa trở chứng mà nài đã xuống tay.

Đi xem bói giải sầu, bà thầy bói nói cung Di của chị có sao Thiên Mã, chém chết cũng phải xuất ngoại. Chị nghe vậy, dốc sức kiếm đường ra đi. Và chị ra đi trên mây, không bị biển khơi dây sóng vùi dập. Còn bao nhiêu vốn, chị để lại hết cho gia đình, ra đi với vài trăm đô dằn túi.

Anh đến tìm chị trơ tráo phân giải. Chị không níu kéo, không phiền hà. Chị bảo anh chị không mong anh trở lại, vì người ta giữ kẻ ở lại, không ai giữ kẻ ra đi. Chị hỏi anh, anh có biết câu ca dao, "Uổng công xúc tép nuôi cò. Cò ăn cho lớn cò dò cò đi" hay không. Anh nhăn mặt khó chịu thì chị cười, "Chuyện đời thường, và anh cũng thường như thế". Rồi chị mời anh ra khỏi nhà, và ra khỏi đời mẹ con chị từ đó.

Tình yêu từ biệt, chị không tiếc. Tiếc làm chi một mớ chỉ rối. Hận làm gì một kẻ lạt lòng. Chị trả thù anh bằng cách vươn mình đi lên. Lúc còn bên kia biển chị còn đủ sức lo cho mình, cho mọi ngưòi. Bây giớ chỉ còn chị và con. Chị tập làm single mom trong một thế giới hoàn toàn xa lạ. Chị vừa đi làm vừa đi học mong lấy được một college degree. Ban đêm chị host cho một nhà hàng sang trọng cạnh bờ biển. Nửa đêm đi xe bus về thấy con còn học, chong đèn chờ mẹ, âu lo. Hai mẹ con nương nhau, như cây leo bám rào, quấn quít từng ngày từng tháng. Chị dè xẻn chắt chiu, mua quần áo ở Ross, Marshall. Sắm mỹ phẩm ở Rite Aid, Walgreens. Thậm chí còn đi Goodwill mua đồ "lâm dố" mà xài. Hai, ba tháng chị ra cửa hàng dịch vụ đóng thùng gởi quà, gởi thuốc về cho gia đình. Mỗi chiếc áo là một hy sinh, mỗi viên thuốc là mỗi nhớ thương chị gởi về cho thân nhân. Trong đầu óc chị vẫn còn hình ảnh những bữa cơm đạm bạc bên quê nhà. Chị xót xa thương cha thiếu thốn, thương mẹ nắng sớm mưa chiều. Chị không trông mong gì ở các em. Xã hội đó không có chỗ cho con nhà ngụy quân ngụy quyền. Chợ trời chưa là nơi dung thân cho kẻ mới lớn nên chị cứ tiếp tục hà hơi, ngoảnh mắt quay lưng với những cửa hàng đầy hấp dẫn như Macy's, Norstrom, Bloomingdale... Chị nghèo áo quần nhưng chị giầu tình thương.

Rồi chị cũng ra trường. Ra trường trước con hai năm. Có việc làm mới, hai mẹ con dọn ra thuê nhà ở khu khá để ban đêm đi về không phải hồi hộp ngó trước nhìn sau, dù ngó trước nhìn sau là câu nhật tụng cho bất cứ địa danh nào.

Chị về thăm nhà lần đầu sau bảy năm chắt chiu. Những đồng tiền lúc đó còn có giá nên chị làm được nhiều việc tưởng không bao giờ dám nghĩ dám mong. Chị sửa nhà cửa, sắm đồ nội thất cho đẹp mắt mẹ cha. Mấy đứa em đã lập gia đình, chị cho mỗi người vài ngàn làm vốn. Vài ngàn lúc đó như vài chục ngàn bây giờ, nên ai cũng trầm trồ khen chị giỏi, chị giầu. Họ có biết đâu chị nhịn xài nhịn thèm để đem về cho họ niềm vui. Chị không than vãn kể công, nhưng cho họ biết đồng tiền bên Mỹ không như lá rụng cho mình đến hốt.

Trở về Mỹ chị lại ky ky cóp cóp, lại cắt coupons đi chợ mua đồ để dành mai mốt đem ra dịch vụ tiếp tế trường kỳ. Con có việc làm lương khá, hai mẹ con chung nhau mua nhà trả nợ 30 năm cho biết đá biết vàng. Đến lúc này, hàng gửi về VN đã xưa như chuyện cổ tích. Dịch vụ gởi tiền giao tại nhà đã thay thế những kiện hàng qua của khẩu Tân Sơn Nhất đóng thuế muốn trào đờm. Chị thấy sung sướng vì không phải khệ nệ vác khiêng, dù đâu đó có tiếng phê bình nọ nọ kia kia. Ai nói gì chị cũng biết, nhưng cha mẹ gia đình mình ai lo nếu mình không rót tiền về tiếp tế. Đôi khi cái khó nó bó cái khôn, biết việc mình làm không là việc khôn việc khéo, nhưng sơ già néo thì đứt giây gia đình.

Những dịp Noel hay tết, chị gởi thiệp về chúc tết gia đình, kèm theo những đồng tiền để mua áo quần, kẹo mứt. Người nhận cứ vô tư nhận mà chẳng hề nghĩ đến chuyện cám ơn. Làm như những đồng tiền, những thùng quà chị gởi là một bổn phận tất nhiên họ không cần thắc mắc chuyện nghĩa ân. Họ chỉ cần trích ra một đô, mấy phút ra bưu điện để tỏ một chút tình mà không ai làm được. Nhiều khi chị tủi thân và ngại ngùng với con cái, nhưng tủi hay ngại cũng chẳng làm chị ngưng làm kẻ yêu một chiều và cho không biết tiếc…

Chị ngán những chuyến bay dài mệt mỏi mỗi lúc trở về, nhưng cha mẹ nay đã già yếu, ra vào bệnh viện như người ta đi chợ. Nên cứ hai ba năm chị lại đóng hành lý ra phi trường về nhà thăm cha me. Mẹ cha còn đó mà không thăm thì khi vắng bóng còn mong nỗi gì. Cho nên chị cứ chăm chỉ bòn mót từng đồng và tiếp tục những chuyến bay dài đăng đẳng.

Những lần trở về gần đây, chị nghiệm ra rằng tình thương em út cho chị đã có nhiều hờ hững. Mấy trăm bạc chị cho chẳng nhằm nhò gì so với thời mở cửa bây giờ. Vài đứa có công ăn việc làm, áp phe áp phúng rộn ràng nhà cửa. Đi xe gắn máy xịn, mang biển số đặc biệt đóng niên liễm cả mấy triệu để giưt le. Con cái đi giầy Nike thứ thiệt cả trăm đô, trong khi mẹ con chị bên Mỹ co ro cúm rúm mua hàng on-sale, final sale không thể sale hơn. Đồng tiền chị cho trở nên mất giá, và giá trị của chị giảm theo tỉ lệ ngược lạm phát.

Biết người biết ta, chị chỉ xin cho quà các cháu, chẳng dám giúp cha mẹ chúng nó. Ngày đầu chị về còn em nọ cháu kia. Mấy ngày sau chỉ có cha mẹ và chị hủ hỉ chuyện trò, thỉnh thoảng mới có một hai đứa ghé ngang hỏi nọ hỏi kia cho có lệ. Mẹ bảo chị, "từ nay con lo cho cha mẹ thôi, chứ chúng nó lớn cả rồi, để cho chúng nó tự lo đi ". Hôm chị ra phi trường về Mỹ, có mấy đứa chẳng ghé chào. Chào mà làm gì, tiền thì đã cho rồi, mà cho thì cũng chả đáng là bao.

Chị dặn mẹ, "Tiền con đưa, mẹ cất kỹ phòng lúc đau ốm mà con không về kịp. Xài đến đâu, mẹ đổi ra tiền Việt đến đó, đừng gởi ngân hàng kẻo đang lạm phát, lời lãi không bõ".

Mấy tháng sau, mẹ gọi sang, than thở với chị rằng vợ chồng con Tư mượn tiền mẹ làm vốn buôn bán. Ai ngờ nó mượn tiền cá độ bóng đá, thua sạch sành sanh, bây giờ không có tiền trả. Mẹ hối vợ chồng nó trả bớt cho mẹ xài, thì tụi nó giận lẫy, tết nhất cũng không thấy mặt thằng chồng vô chúc tuổi. Chỉ có con vợ mua cho mẹ vài tấm bánh chưng tỏn mỏn cho có lệ. Tiền của mẹ thì vợ chồng nó không chịu trả, mà cứ lo trả tiền bài bạc cho thằng con lớn. Thằng đó ra đường ăn xài như con nhà đại gia, bán cả Honda, cầm cả đồng hồ. Rồi cho "xã hội đen" giả tới đòi tiền cha mẹ! Bó tay!

Chị gọi cậu Năm hỏi đầu đuôi tự sự, mới vỡ lẽ là ai cũng chí véo vô tiền chị cho mẹ. Đứa vài ngàn đô, đứa năm bảy trăm. Bây giờ mẹ còn cái bóp trống rỗng, tháng nào cũng trông chị gởi tiền về làm lẽ sống. Chị thở dài ngao ngán. Phải chi có năm bảy gia đình bên này gởi về chu cấp cho một hai gia đình bên đó thì nhẹ thở biết mấy. Đằng này, chỉ có chị, cong lưng mà kéo. Chị buồn lắm, nhưng lại tự an ủi, cái số mình nó vậy. Trời cho mình sanh nhằm năm con ngưa. Ngựa thì phải kéo xe. Chị tự nhủ lòng, khi nào cha qui tiên mẹ bái tổ thì chị sẽ cho ngựa nghỉ, làm một chuyến du lịch dài ngày cho biết đó biết đây.

Bỗng từ ngoài phòng khách, chị nghe tiếng gọi thánh thót của đứa cháu gái, "Grandma, con muốn grandma ra làm ngựa cho con cỡi!"

Chị mỉm cười. Đúng là chạy trời không khỏi nắng!
Back to top
 
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #833 - 27. Feb 2014 , 09:29
 
...

   Cám ơn Ngố đã chia xẻ bài viết " Ngày Xưa Hoàng thị...Ngọ  " hay quá.
   Nhớ " Bảo trọng " nhang Ngố. Chị TvMs rất vui khi thấy bóng hồng em dạo sân trường cùng chị. Đúng là " Thần Giao cách cảm ".

   Chúc cả nhà an lành để chào đón cuối tuần , và tháng 3 , như ý nhé.

  Chị TvMs


Back to top
 

hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #834 - 28. Feb 2014 , 12:53
 
Hẹn Hò


A very well done (melancholy and funny) short film about an old man who wants to date someone young and beautiful. 
Watch when you have about 7 minutes.   

www.youtube.com/embed/tiAZ01dkcdc?feature=player_embedded
Back to top
« Last Edit: 28. Feb 2014 , 12:53 by khieulong »  
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #835 - 28. Feb 2014 , 13:02
 
Ngố wrote on 26. Feb 2014 , 11:42:
Cám ơn em Ngộ ghê ta....
Anh Sháo vẫn luôn thích loại nhạc êm dịu và sâu lắng này đó em Ngộ...mấy hôm rày có gì mới lạ hay không?  Cool

Dạ em ngộ khoanh tay lễ phép chào anh Sháu ạ.Có điều lạ đó anh Sháu là em ngộ có anh chàng KÉP đẹp giai, anh này trắng trẻo bảnh bao con của nữ hoàng BĂNG GIÁ, tên của ảnh thật kiêu..là anh TUYỆTHôm qua và sáng nay anh ghé thăm em ngộ, típ chiện ví ảnh cả tháng nay nên em ngộ phải theo chị Mây Say đóng kịch vở Đắc Kỷ ho gà khe khe khe, cho nên chỉ ư ứ ra dấu không hà, nay thì em ngộ hết khò khè rùi nhưng vẫn còn ê ẩm vì sau trận bão cúm (gà).Thằng bạn của en nó tên Phan Tấn Ngọc nó cứ đòi tặng em một thời kinh vãng sanh, nhỏ bạn tên Úc Oanh thì cứ email hỏi :"chết chưa mậy?" hic hic hic..
Cám ơn anh Sháu nhìu nhang.Coi dzị chứ khó đi đoàn tụ ông bà lắm hahaha  Grin Grin Grin
em ngộ Roll Eyes


Woa , mấy hôm rày em Ngố bị flu hành lắc lư con tàu đi nên thấy im hơi lặng tiếng làm ông anh tưởng đang dung giăng dung dẻ du ngoạn ở vùng biển xanh nào rồi cơ chứ...
Nhớ ráng uống thuốc cho khoẻ để cùng nhau giúp vui cho bà con mình trong những khi rảnh rỗi nha , còn cái vụ ho hen thì hôm nay đã bớt chưa..nếu còn lai rai thì chịu khó ngậm kẹo Ricola coi vậy mà hay lắm đó nha...khi bị húng hắng ông anh xài loại này thấy rất là dễ chịu.....

...
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #836 - 28. Feb 2014 , 13:08
 
Ngố wrote on 26. Feb 2014 , 11:45:
Hihihihihi...có thiệt hong anh Sháu, cô đơn sung sướng mà Sad
em ngộ


Bởi vậy lúc nào anh Sháu cũng thích cô đơn còn cái vụ ngủm củ tỏi thì bao giờ trời kiu ai thì phải dạ mà thôi......có bồ có bạn thì cũng thích mà không có bồ bạn thì cũng đâu có sao đâu..... Cool Cool Cool
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #837 - 28. Feb 2014 , 13:13
 
Ngố wrote on 26. Feb 2014 , 11:48:


Đúng là hình ảnh nghệ thuật chỉ có những người có năng khiếu nghệ thuật mới có thể nghĩ ra và mang vào đời sống vốn rất phong phú này.
Em Ngố có bà con xa gần gì với cô nguyenminhhien nay không vậy....ha.
Back to top
 
 
IP Logged
 
khieulong
Gold Member
*****
Offline


Lục Tiểu Huynh

Posts: 2775
Gender: male
Re: Chợ Chiều
Reply #838 - 28. Feb 2014 , 13:26
 

...

Nợ Đời một nửa, còn một nửa nợ ơn em

(Viết cho em và những người vợ lính trung hậu)


Thời còn đi học, lang thang từ Nha Trang đến Sài Gòn, dù con nhà nghèo, học tàm tạm, và nhan sắc dưới trung bình, tôi cũng đã mang tiếng đào hoa. Cho nên có muốn kéo dài thêm cái đời học trò để được mơ mộng đủ thứ chuyện dưới biển trên trời thiên hạ cũng đâu có cho. Rồi có phải thuộc giòng hào kiệt gì đâu, tôi cũng xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. Nói kiếm cung cho nó vẻ văn chương và lãng mạn, chứ thực ra tôi vào lính, mà lại là thứ lính hạng bét thì làm gì có kiếm với cung. Có phải lính tàu bay tàu thủy gì đâu, mà là lính đi bộ. Lúc băng rừng lội suối, mặc bộ đồ trận hôi hám cả tuần không tắm, tôi ghét cay ghét đắng cái ông nào là tác giả cái câu “Bộ Binh là nữ hoàng của chiến trường” mà tôi đã đọc được ngay từ khi mới vào quân trường, đếm bước một hai để hát bài “đường trường xa”. Khổ thì khổ vậy, chứ mấy cô gái bé bỏng hậu phương lại mê lính trong mấy bản nhạc của ông Nhật Trường. Vì “nếu em không là người yêu của lính, ai thương nhớ em chiều rừng hành quân, ai băng gió sương cho em đợi chờ, và giữa chốn muôn trùng ai viết tên em lên tay súng ? .. ”. Nhờ vậy, trong mấy năm đóng quân dọc đường số 1, nơi nào tôi cũng để lại vài mối tình con. Tôi nghĩ đời lính như vậy mà vui, thì thôi chớ tính chuyện vợ con làm gì cho nó vướng chân vướng cẳng. Hơn nữa tôi cũng hiên ngang với đám con gái lắm, thì làm gì có chuyện “chết trong mắt em”. Vậy rồi trời xuôi đất khiến thế nào, sau mấy năm đánh đấm ở Quảng Đức, Ban Mê Thuột rồi Bình Định, Phú Yên, đơn vị tôi được mấy cái tàu há mồm chở vào bỏ xuống bãi biển Nha Trang vào lúc đường phố mới lên đèn. Tôi thấy lòng lâng lâng sung sướng vì không khí yên bình của thành phố biển, mà cũng vì tưởng mình đã được trở về với những “hang động tuổi thơ” của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Nào ngờ, khi còn mải mê với mộng mị, tôi bị đánh thức lúc nửa đêm cùng đơn vị leo lên một đoàn xe mấy chục chiếc để tiếp tục “hát khúc quân hành”. Đoàn xe ra khỏi thành phố, qua Ty Thông Tin, ra quốc lộ 1, trực chỉ hướng bắc. Tôi lại mừng thầm, nghĩ là sẽ được về dưỡng quân ở huấn khu Dục Mỹ. Nhưng tôi đã “ước tính tình hình” sai bét. Đoàn xe dừng lại tại bùng binh, ngã ba Ninh Hòa. Một tiểu đoàn lính đổ xuống cái thị trấn còn đang say ngủ. Đại đội tôi nhận lệnh vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau tôi rủ mấy thằng bạn, quần áo chỉnh tề, ra phía trước “thăm dân cho biết sự tình”.

Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hởi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa ”Trăng Mường Luông ”.

Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó :

Hồi nhỏ tôi rất anh hùng
Một mình dám nhảy cái đùng xuống sông
Bơi nghiêng, bơi ngửa giữa dòng
Hiên ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ
Lớn lên trở chứng ngu khờ
Mắt em nào phải bến bờ sông sâu?
Cớ sao chưa kịp lộn nhào
Đành chịu chết đuối, thiệt đau đúng là…

Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Đã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba.

Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó – mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ – bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa.

Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng – ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái.

Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi một bài thơ khá dài và hay lắm. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Vì vậy tôi không còn nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy câu viết về nàng:

Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Em vá chồng lên những nỗi niềm
Từ thuở anh đi nhà tróc nóc
Con thơ đâu còn biết vui cười
Cô gái Ninh Hòa, thương quá đỗi
Một mình chèo chống giữa phong ba

Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, cùng một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một canh bạc cuối cùng.

Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng băng tuyết mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.

Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn đất nước nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng. Cuối cùng nàng cũng chì còn có tôi, người lính thất trận năm nào, đã mang đến cho nàng biết bao là hệ lụy. Dư âm cuồng nộ của những cơn dông bão năm nào dường như vẫn còn đâu đó trong giấc ngủ của riêng nàng.

Tuổi sắp già, mà tôi còn mang nhiều món nợ. Biết làm sao trả cho xong. Nợ núi sông, nợ máu xương bè bạn. Mà khổ thay, tôi thì cứ mãi là thằng lính hèn mọn, bạc tình. Và tôi còn nợ nàng, nợ Ninh Hòa. Mảnh đất hiền hòa đã cho tôi một người vợ chung tình, cùng tôi qua bao cuộc biển dâu.

Phạm Tín An Ninh
Back to top
 
 
IP Logged
 
Ngố
Gold Member
*****
Offline



Posts: 2094
Gender: female
Re: Chợ Chiều
Reply #839 - 01. Mar 2014 , 08:00
 
Woa , mấy hôm rày em Ngố bị flu hành lắc lư con tàu đi nên thấy im hơi lặng tiếng làm ông anh tưởng đang dung giăng dung dẻ du ngoạn ở vùng biển xanh nào rồi cơ chứ...
Nhớ ráng uống thuốc cho khoẻ để cùng nhau giúp vui cho bà con mình trong những khi rảnh rỗi nha , còn cái vụ ho hen thì hôm nay đã bớt chưa..nếu còn lai rai thì chịu khó ngậm kẹo Ricola coi vậy mà hay lắm đó nha...khi bị húng hắng ông anh xài loại này thấy rất là dễ chịu.....


Dạ cám ơn anh Sháu sau 1 tháng trời ho hen cảm mạo nay cũng hét hò đặng rùi hihih...Có 1 điều tức cừi là khi thấy ai gửi cho thông tin gì cảm thấy hay là lật đật FW bốn phương tám hướng, chẳng hạn như kinh nghiệm của người bị HO là bôi dầu nóng ở lòng bàn chân rồi dán miếng salonpas mang vớ vào rồi đi ngủ sau vài đim cái ho cái cảm tự động rời xa.Thế mà em ngộ mới nhớ và mần cho mình tối hôm qua thui huhuhu...thiệt là tức...!!!!
Em ngộ cứ ngậm kẹo Halls suốt , có người vô Costco mua 1 ề gửi cho nên cứ thế mà ngâm...ghiền lun hahahaha.Cám ơn anh Sháu lần nữa nhang.Chúc anh Sháu cuối từng dzui bự.
Em ngộ
Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 54 55 56 57 58 ... 93
Send Topic In ra