Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Gánh Hàng Hoa  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 ... 116 117 118 119 120 ... 173
Send Topic In ra
Gánh Hàng Hoa (Read 199813 times)
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1755 - 28. Feb 2010 , 21:34
 





Hoạ Mi Tóc Nâu

Trình bày : Mỹ Tâm





Nhạc phẩm #484



thanks.gif



Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa
Reply #1756 - 01. Mar 2010 , 10:52
 


Truyện đọc của GHH ngày hôm nay

Chỉ Biết Ngậm Ngùi       
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích 


...



   
Trong chuyến viếng thăm tiểu bang Utah, tôi đi thăm hầu hết các thắng cảnh nơi đây.

Thủ phủ của tiểu bang là Salt Lake City. Hồ nước mặn Great Salt Lake rộng mênh mông nằm trong vùng đồi núi Rocky Mountains cao hàng ngàn bộ cách mặt biển. Ðộ muối trong nước cao gấp năm lần nước biển đại dương. Một kỳ công của Thượng Ðế đã ưu đãi cho vùng đất cao nguyên này.

Utah còn là Thánh địa của đạo Mormon, đang phát triển rất mạnh. Ðến Utah không thể không đến viếng Mormon Temple. Một thắng cảnh, một kỳ quan có chiều dài lịch sử gắn liền với sự khai khẩn, xây dựng và phồn thịnh của Utah. Ðạo Mormon (Mạc Môn) còn tên gọi khác là Ðạo LDS viết tắt của chữ Latter Day Saints, có nghĩa là Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Jesus Christ (The Church of Jesus Christ of Latter Day Saints). Ðền thờ trung tâm có sáu ngọn tháp cao chót vót xây dựng suốt bốn mươi năm mới hoàn thành. Trung tâm giáo hội (Temple Square) trải rộng 35 mẫu Anh là một quần thể kiến trúc vĩ đại, tân kỳ, lộng lẫy và trang nghiêm.  Trên đỉnh tháp đền thờ (Temple Of The Lord) cao vút là tượng một người đàn ông bằng vàng đứng thổi kèn. Ðây là tượng của vị thiên sứ ánh sáng Moroni hiện ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1823. Ngài soi dẫn cho tiên tri Joseph Smith đương thời biết nơi chôn giấu biên sử cổ xưa. Sách ấy chứa đựng trọn vẹn Phúc Âm vĩnh cửu do chính Ðấng Cứu Rỗi đã ban cho các dân tộc. Từ đó, kinh sách Mormon được dịch và viết ra dựa vào bảng khắc bằng vàng (Gold Plates) chôn cất trên đồi Cumorah gần làng Manchester thuộc tỉnh hạt Ontario, tiểu bang New York từ năm 421 sau Thiên Chúa. Toàn bộ sách Mormon là lời rao giảng của Chúa Jesus Christ giữa người Nephites không lâu sau khi Chúa phục sinh. Ngài tiên tri Joseph Smith còn được Chúa  khải thị viết nên tập Giáo Lý và Giao Ước.

Luật tiểu bang Utah không cho mở sòng bài và các hình thức đánh bạc công cộng. Các chợ chỉ bán bia với nồng độ 3 phần trăm. Kết hợp với "Lời Thông Sáng" của đạo Mormon, đạo hữu không cờ bạc, không hút thuốc, không uống các loại nước có ga và có màu khiến cho đời sống nơi đây yên bình hơn, ít tội phạm hơn so với tình trạng chung trên đất Mỹ. Và có thể nói là môi trường thích hợp cho tuổi thơ được nuôi dưỡng và lớn lên trong nếp sống trong lành.
               
                                                            * * *
        Tôi đi theo đoàn người vào thăm khu Temple Square. Dọc theo lối đi là những luống hoa khoe màu rực rỡ. Mặt nước hồ nhân tạo được xây cao trên mặt đất nằm im phăng phắc như tấm gương vĩ đại phản chiếu lấp lánh ánh mặt trời. Các hình tượng điêu khắc đầy nghệ thuật và phong phú được trưng bày trên những bực thềm và dựng rải rác trong khuôn viên rộng lớn. Các chức sắc, những người truyền giáo và tín hữu làm công tác  thiện nguyện trang phục vét-tông cà-vạt chỉnh tề. Họ có nhiệm vụ giữ trật tự, hướng dẫn và giải thích những điều mà khách thăm viếng và tín đồ hành hương cần tìm hiểu.   

Tôi vừa bước lên khỏi bậc thềm khu nhà thờ Church Office Building, tòa cao ốc 26 tầng dùng làm trung tâm điều hành của giáo hội, chợt một thanh niên trong bộ vét-tông đen trông chững chạc và đạo mạo  đến trước mặt tôi :

        -    Thưa, bác là người Việt ?

Tôi nhận ra là một thanh niên Việt Nam. Có lẽ đây là thầy Tư tế, một chức phẩm  trong dòng đạo này làm công tác thiện nguyện vào ngày Chúa Nhật. Tôi đứng lặng nhìn người thanh niên đang đứng trước mặt tôi có khuôn mặt giống người bạn của tôi năm xưa khi ở chung trong trại tù sau năm 1975. Sự bàng hoàng trải qua mấy phút đồng hồ, tôi mới thốt nên lời:

        -    Vâng, tôi là người Việt. Xin lỗi cậu về sự thất thố đã đường đột nhìn cậu trong khung cảnh này. Có điều tôi cũng xin thú thật là cậu có khuôn mặt giống người bạn tôi hồi còn ở quê nhà.

Người thanh niên hướng dẫn tôi đi thăm khu Bảo tàng viện và Nghệ thuật gồm tranh ảnh và những bức tượng điêu khắc các vị Lãnh đạo (Presidents) và 12 Sứ Ðồ từ thời khai sáng đạo Mormon đến bây giờ.

        -    Này, cậu qua Mỹ năm nào?  Tôi gợi chuyện, khi người thanh niên đứng lại đợi đoàn khách thăm viếng còn trụt lại sau.

        - Thưa bác, cháu qua đây vào giữa năm 1992 theo diện HO cùng với  mẹ cháu và  một người chị được  định cư ở tiểu bang Utah này ngay từ ngày đầu.
                                                                                                         
        -    Thế ba cậu đâu ?
        -    Ba cháu chết trong trại tù An Ðiềm .
        -    Ba cậu tên gì?
        -    Tôn Long Mỹ .

        Tôi sửng sốt đến lặng người, rồi nhắc lại:

        - Tôn Long Mỹ là cha ruột của cậu sao?
        - Vâng ạ. Me cháu  bảo ba chết lúc cháu mới ba tuổi.
       - Cháu ơi, Tôn Long Mỹ  là bạn của bác sống gần nhau suốt ba năm trong tù.

     Người thanh niên đứng khựng lại nhìn tôi rồi thảng thốt kêu lên:

        -  Ba cháu là bạn cùng tù với bác? Ôi, quý hóa quá. Ðiều ước nguyện của me cháu là mong gặp được người nào đã chứng kiến cái chết của ba cháu trong tù. Thượng Ðế ơi ! ngài đã chuẩn nhận lời cầu xin của con và ngày hôm nay Cha trên trời đã mang đến cho gia đình con ân sủng của ngài. Con xin tạ ơn Chúa , Amen.
            
Người thanh niên ngẩng đầu lên:
         -  Thưa bác, tên cháu là Tôn Thất Trương Thuật. Cháu nghĩ bác không phải là người ngụ cư ở tiểu bang này vì vậy xin phép bác cho Me cháu được gặp mặt trong ngày mai. Có được không, thưa bác?

        Tôi móc bóp lấy tấm danh thiếp của con trai tôi đưa cho Thuật:

        - Ðây là số phôn và địa chỉ nhà con tôi. Qua đây chỉ để thăm con cháu và viếng cảnh, tôi chẳng có gì phải bận bịu. Me cậu muốn gặp tôi giờ nào cũng được, còn cả tuần nữa tôi mới quay về Cali.

                                                                        *  *  *
        Cuộc thăm viếng vẫn tiếp tục nhưng hình ảnh của Tôn Long Mỹ qua những năm tháng trong tù như một đoạn phim hiện ra trong trí nhớ của tôi:

         Mỹ nhỏ hơn tôi 5 tuổi, vóc người tầm thước, khỏe mạnh và xốc vác. Tính tình thuần hậu, phóng khoáng. Anh rất sùng đạo Phật. Tuy nội quy cấm mọi hình thức có tính cách tôn giáo, nhưng Mỹ vẫn cố lén ăn chay vào ngày mồng Một và ngày Rằm âm lịch..

        Ban giám thị trại chỉ định đội 3 phụ trách xây dựng chiếc cầu treo bắc qua dòng sông Côn để dân  chúng làng Thượng và tù nhân có thể qua lại trong mùa nước lũ. Bên kia sông là cánh đồng rộng chạy dài đến tận chân đèo. Mỗi năm, tù phải sản xuất đủ ba mùa lúa. Mùa mưa thì tháo bớt nước ra, mùa nắng thì thay nhau đêm ngày tát nước lên đồng.                                                                                                                                        

Hai bên bờ sông toàn là đất núi bị nước xoi mòn lâu ngày thành sông. Người ta chọn nơi có hai mô đất nhô ra là nơi hẹp nhất của dòng sông để bắc cây cầu đi qua. Những ngày đầu khởi công, đội làm cầu phải đào đất, đóng kè xây dựng hai môi cầu cho vững chãi để giữ chân bốn thanh đường ray xe lửa làm trụ chịu đựng sức trì kéo của cây cầu treo dài 80 mét.

        Mùa lũ, nước chảy xiết đã khoét lõm sâu vào chân dọc hai bên bờ. Ðể nâng giữ khối đất phía trên khỏi bị sụp lở, tù phải xây những lớp đá vào chỗ lõm bên dưới. Ðang trong mùa nắng hạn mực nước sông xuống thấp tận cùng nên hai môi cầu là hai khối đất khổng lồ đứng chênh vênh bên bờ vực.  Ðám tù hì hục đưa đá tảng lấp đầy khoảng trống dưới chân môi cầu.
 
        Mỹ là tay thợ xây trong toán cất nhà cửa từ ngày vào tù. Cách làm việc của anh là tận lực, yêu nghề và tinh thần trách nhiệm cao mặc dầu anh chỉ là tù nhân. Mỹ có quan niệm : Bất cứ lãnh vực nào người sỹ quan Miền Nam phải thể hiện tài năng trước bọn cai tù. Ðừng để họ lấy cớ sự sai sót mà mạt sát lăng nhục mình. Chính vì thế mà anh nhận công việc nặng nề nhất là xây bệ đỡ cho khối đất bên dưới môi cầu.

        Hàng trăm viên đá chẻ được một đội tù khác cung cấp chất đống trên mô đất dự định xây móng chân cầu. Sức nặng của đống đá cùng với sự hỏng chân của doi đất, khối đất trên đầu Mỹ bất ngờ đổ sụp.  Mỹ bị chôn sống dưới khối đất khổng lồ. Bạn tù đã nổ lực đào bới để cứu anh. Nhưng, con người chỉ là sinh vật bằng xương bằng thịt làm sao chịu đựng nổi sức nặng hàng chục tấn của đất đá đè lên. Xác anh cuốn tròn mềm nhũn như con sùng. Nước mắt chúng tôi chảy ràn rụa. Lần đầu tiên người tù không che dấu dòng lệ của mình trước mặt bọn cai tù. Mỹ ra đi để lại nỗi đau đớn tận cùng cho người vợ trẻ và hai đứa con thơ.

        - Thưa bác, đây là vị Tiên tri Joseph Smith được Chúa mặc khải viết ra Giáo Lý và Giao Ước. Cũng là vị Chủ tịch đầu tiên của Giáo Hội bầu ra tại một buổi họp của Hội Ðồng Thượng Phẩm trong ngày 24 tháng Chín năm 1834 tại Kirtland, Ohio.

        Lời giới thiệu của Thuật làm tôi bừng tỉnh. Trước mặt tôi là bức tượng bán thân bằng đồng đỏ mà mắt tôi chỉ nhìn thấy thân thể của Mỹ đầy máu. Tất cả xương trong người anh từ đầu đến chân hầu như nát vụn. Thi hài anh khi được khiêng lên nó oằn xuống thoạt trông như một chiếc bao tời đựng thịt. Ðầu và mặt anh hoàn toàn bị biến dạng . Ðến đây, tôi không còn tinh thần và hứng thú để đi xem hết các công trình nghệ thuật trong viện bảo tàng nữa nên cáo từ Thuật ra về.
               
                                                *  *  *
        Sáng ngày hôm sau, tôi nhận được cú phôn của Thuật thật sớm mời tôi đến nhà hàng Mỹ Tiên vào lúc 12 giờ trưa, nhân tiện me của cậu xin phép  được gặp mặt.

        Tôi vừa đến cửa nhà hàng, Thuật đã vội vàng ra đón. Một phụ nữ mặc áo dài màu khói hương đứng dậy cúi đầu:
        -    Kính chào ông anh.

        Tôi thật sự xúc động, khi Thuật giới thiệu đây là me của cậu. Khuôn mặt người đàn bà thanh tú, phúc hậu nhưng trong ánh mắt vương vất nỗi buồn. Tôi cúi đầu chào đáp lễ, rồi ngồi vào chiếc ghế đối diện mà Thuật vừa mới kéo ra mời.

        - Thưa ông anh, giọng Huế nhè nhẹ, trầm buồn, người đàn bà tự giới thiệu:
        - Em tên là Trương Thị Ngọc nghe cháu Thuật nói gặp được ông anh, người ở cùng chung trại tù An Ðiềm với ba nó. Em mừng lắm. Mặc dầu anh Mỹ mất đã gần 25 năm mà lòng em cứ phân vân, thắc mắc mãi khi nhận được giấy báo của trại tù rằng chồng em chết vì bệnh nhiễm trùng gan cấp tính. Trong khi đó đã hai lần em được anh ấy về báo mộng với khuôn mặt đầy máu me nhìn em trong đau đớn. Hình ảnh đó chưa phai mờ trong trí nhớ của em.  Trước khi đi Hoa Kỳ, chúng em có đến trại An Ðiềm để xin dời mộ nhưng Ban Giám Thị trại không xác định được vị trí nơi chôn anh Mỹ, còn tù nhân toàn là lớp hình sự sau này. Cái nghĩa địa tù bị nước trên đỉnh núi cao đổ xuống xói mòn gần hết. Em vô cùng đau khổ, đến lúc ra đi mà chưa lo cho chồng được mồ yên mả đẹp. Hai đứa con em biết rõ niềm trăn trở đó, chúng nó luôn luôn cầu nguyện mong được gặp người biết rõ về cái chết của ba chúng. Cách đây hai đêm, em nằm mộng thấy nhà em về chùa. Trong cơn mơ em mừng quá chạy đến ôm anh ấy nhưng hình hài đó tan biến ngay. Không biết có phải đây là điềm báo của anh Mỹ rằng em sắp gặp được ân nhân. Em hy vọng ông anh biết rõ cái chết của chồng em và còn nhớ địa điểm mộ phần của anh ấy.

        Người phụ nữ nói một mạch như trút cả nỗi lòng u ẩn bấy lâu nay. Tôi trân trọng trước lòng trung trinh tiết nghĩa của người vợ sống trọn đời thờ chồng nuôi con. Trước khung cảnh này đây, tôi không muốn khơi lại hình ảnh cái chết khủng khiếp của Mỹ. Tôi không muốn tạo thêm sự khủng hoảng trong lòng mỗi người. Vì thế, buộc lòng tôi phải lặng thinh xem như  đồng lõa với sự dối trá của một chế độ luôn luôn che đậy sự thật và chối bỏ trách nhiệm của mình.

        - Thưa chị, tôi lên tiếng. Cái chết của anh Mỹ, anh em tù chúng tôi đau lòng lắm. Ðời người chỉ một lần chết, tiếc rằng anh ra đi quá sớm. Phải chăng định mệnh đã an bài. Mong chị và các cháu thôi băn khoăn về nó nữa. Tôi vẫn còn nhớ chỗ chôn anh ấy  trong nghĩa địa tù. Hứa với chị khi về lại Cali, tôi sẽ vẽ sơ đồ địa điểm ngôi mộ  của anh Mỹ.

        Khi tôi ngưng nói, bà lấy khăn thấm giọt lệ còn đọng lại trong khóe mắt, rồi tiếp lời:

         - Thưa ông anh, nếu được, xin gởi cho em bản vẽ địa điểm mộ của anh Mỹ càng sớm càng tốt. Cuối năm này, cháu Thuật đi Việt Nam với phái đoàn thuộc "Hội Bạn Người Cùi Việt Nam" trụ sở ở Mỹ kết hợp với nhóm "Vòng Tay Bạn Bè" ở Hà Nội  làm công tác thiện nguyện ủy lạo, giúp đỡ và chăm sóc cho những người mắc bệnh cùi. Nhân dịp này em sẽ theo cháu về dời mộ cho ba chúng nó .

        Thuật đang ngồi yên trong góc bàn chăm chú nghe, tôi liền quay sang hỏi:

        - Cậu về Việt Nam công tác bao lâu ?
        - Cháu tình nguyện một năm.
        - Sao lâu đến thế !

Bà mẹ tiếp :

        - Cháu nó theo ngành Y, còn một năm cuối cùng thực tập trong bệnh viện  ở tiểu bang này trước khi ra trường. Người yêu của nó là nữ sinh viên Việt Nam qua Mỹ du học. Chúng nó yêu nhau và dự tính sau chuyến đi này trở về sẽ tổ chức đám cưới tại đây. Thằng con em, nó sống cho tha nhân. Sẵn lòng dấn thân giúp đỡ cho người nghèo khổ, hoạn nạn dù bất cứ dân tộc nào. Hai chị em nó có cùng một quan điểm: “Thương người như thể thương thân.”

        Tôi ngắt lời :
        - Vậy hiện giờ cháu gái ở đâu?
        - Cháu có chồng là một Mục Sư Tin Lành người Mỹ hiện ở Colorado. Trận thiên tai, bão lụt nào ở Việt Nam bị thiệt hại nặng nề là vợ chồng nó đều gởi về cả tấn áo quần, chăn mền do Thánh đường quyên góp.

          Sau bữa cơm trưa tại nhà hàng, tôi từ biệt mẹ con Thuật ra về. Một tuần lễ sau tôi lên máy bay trở lại tiểu bang Cali. Ðể thực hiện điều mình đã hứa, tôi ôn lại vị trí của nghĩa địa tù An Ðiềm để vẽ cách nào đơn giản nhất mà gia đình của Mỹ có thể tìm được mộ anh dễ dàng. Tôi không tưởng tượng được hiện giờ nghĩa địa ấy bị hoang phế ra sao, nhưng chắc chắn là nước mưa từ trên núi đổ xuống đã san bằng tất cả. Những tấm bia bằng gỗ tạp trải qua trên hai chục năm không thể tồn tại với thời gian. Rất may là ngôi mộ của Mỹ nằm sau gốc một cây đại thụ che chắn. Nước có thể xoi mòn phần trên mặt nhưng xương cốt Mỹ nằm sâu dưới đất không thể trôi theo dòng nước. Trong sơ đồ, tôi ghi rõ trên thân cây đó có bốn nhát búa hình chữ M do anh em tù trong đội thay nhau khắc vào. Ðó là dấu tích mà tôi hy vọng gia đình của Mỹ sẽ tìm ra.

        Nhận được bản phác họa chỉ dẫn,Thuật điện thoại sang cảm ơn và tin cho tôi hay tháng tới sẽ lên đường về Việt Nam.
                  
                                            *  *  *
            Ba năm sau, tôi trở lại Utah trong mùa Giáng Sinh. Ðồi núi vây quanh thung lũng rộng lớn trở thành những dãy núi tuyết sáng trắng. Tuyết phủ đầy trên mái nhà và tràn ngập hai bên lề đường.

           Trong ngày Giáng Sinh, tôi theo đoàn người tiến vào khu Temple Square. Vừa bước chân vào đây là tôi cố ý tìm gặp cậu Tôn Long Trương Thuật để hỏi thăm tin tức về mẹ cậu và việc dời mộ của bố cậu như thế nào. Tôi dạo trong khu Tabernacle nổi tiếng với cây đàn Orchestra khổng lồ gồm 11,000 ống tupe kim loại ghép lại. Có thể nói đây là cây đàn lớn nhất thế giới. Rồi đến khu Conference Center, chứa 21,000 chỗ ngồi và 900 ghế cho ca đoàn. Hội trường được thiết kế với kỹ thuật hiện đại mà âm thanh của hai mảnh giấy cọ vào nhau trên khán đài, người ở cuối phòng cũng nghe được. Sau cùng, tôi tìm tới khu Joseph Smith Memorial Building, nơi đây chung quanh tường có những phù điêu chạm khắc mỹ thuật và tinh xảo nhưng vẫn không thấy Thuật đâu. Tôi ra về mà nghe lòng mình trống trải vô cùng.

        Ngày mồng một âm lịch, tôi đến viếng cảnh chùa Tam Bảo.  Những bông tuyết rơi đầy trời, phủ trắng cả sân chùa như trải thảm bằng bông. Hàng cây kiểng chạy dài trước sân lung lay những mảnh tuyết vỡ trên cành lá. Tôi đang dạo bước trên lối đi vào chánh điện, chợt một ni cô đến trước mặt tôi vái chào. Tôi sững sờ khi nhận ra người phụ nữ ba năm về trước,Trương Thị Ngọc. Bà cho biết đã quy y mang pháp danh Diệu Ngọc. Chỉ ba năm thôi mà trông bà cằn cỗi, già đi rất nhiều. Ðôi mắt tràn ngập nỗi ưu tư, sầu não. Bà mời tôi vào nhà khách dùng trà. Ni cô lên tiếng:

        - A Di Ðà Phật, trước tiên bần ni xin đại diện gia đình bày tỏ lòng tri ân đến ông anh. Nhờ bản vẽ địa điểm ngôi mộ rõ ràng từng chi tiết nên chúng tôi đã tìm được mộ phần của anh Mỹ khá dễ dàng. Hài cốt của anh ấy đã được đem qua đây thờ trong chùa. Những tưởng linh hồn anh Mỹ được thanh thoát... Nói đến đây, chợt những giọt lệ long lanh trong mắt của ni cô trào ra.

        Tôi ngạc nhiên, vội hỏi:

        -    Ðã có chuyện gì xảy ra?

        Ni cô cúi đầu để dấu đi những giọt lệ mà một sa di cần phải đè nén. Hồi lâu bà mới  ngẩng mặt lên:

        - Sau một năm chăm sóc những nạn nhân bệnh cùi ở Việt Nam, cháu Thuật trở lại Hoa Kỳ. Ban đầu, Thuật trốn tránh người yêu của nó và cuối cùng quyết định dứt khoát không còn liên lạc với nhau. Một thời gian sau, trên mặt cháu xuất hiện những mụn sưng đỏ. Tôi hỏi, nó lảng tránh, không trả lời. Dần dần cháu nó ít về nhà hơn. Cách đây một năm, cháu về Việt Nam ở lâu dài. Vừa rồi tôi nhận được thơ của nó.

          Bà ngưng kể, lấy trong túi áo trao cho tôi một lá thư đã nhàu, nội dung khá ngắn gọn: “Có lẽ ý muốn của Chúa dành cho con một đời phải hy sinh phục vụ cho nhân sinh đang gánh chịu nỗi thống khổ của căn bệnh hiểm nghèo. Con rất thỏa lòng khi chính bàn tay mình  thoa dịu được nỗi cô đơn của bao người bất hạnh. Tuần này ở trại cùi Quy Hòa thuộc tỉnh Bình Ðịnh. Tuần sau có thể ở  làng phong cùi Ðồng Lệnh tận tỉnh Tuyên Quang để chăm sóc cho các bệnh nhân. Mong me xem con như được Chúa đón đi từ  lúc mới lọt lòng.”

Chờ tôi đọc xong bức thư, bà tiếp :   

         -  Khi hiểu ra thằng con đã mắc bệnh phong cùi, tôi đã khóc suốt đêm trường. Mỗi lần nghĩ đến nó  là lòng tôi quặn thắt như đứt từng đoạn ruột, tê dại cả tâm hồn.

        -  Thưa bà, tôi lên tiếng an ủi : Có phải chăng đây là sự sắp đặt củaThượng Ðế? Theo tôi được biết bệnh phong cùi không dễ truyền nhiễm cho người chăm sóc khi đã ngăn ngừa đầy đủ, vả lại đã có thuốc điều trị tổng hợp từ thập niên 70 – 80. Thuốc tiêu diệt được vi khuẩn, giảm thiểu lây lan.

        - Nhưng, thưa ông anh, bà mẹ của Thuật nhìn tôi không còn là ánh mắt một ni cô mà trở về với ánh mắt chuyên môn của một y tá viên điều dưỡng, nghề nghiệp của bà ngày xưa:   

        - Thuốc có thể chữa lành bệnh với đa hóa trị liệu nầy, nhưng không phục hồi được tổn thương của dây thần kinh làm biến dạng mặt, biến dạng bàn tay bàn chân. Ðó là những dấu tích mà con tôi phải chịu đau lòng, mang mặc cảm tủi nhục suốt đời của người mắc bệnh phong cùi  !      
         
        Nói đến đây, bất chợt ni cô Diệu Ngọc ôm ngực chạy về hướng tịnh thất.

Tôi thật sự xót xa trước nỗi đau của người mẹ như đã nhận lãnh cơn đau của con trai mình. Riêng về Thuật, tôi cảm nhận được đức tin cao cả của chàng. Ðức tin đã vượt lên trên những ước vọng tầm thường mà người phàm đeo đuổi. Tôi tin rằng Chúa sẽ dẫn dắt cậu ấy đi trọn vẹn cuộc đời hạnh phúc sống vì  tha nhân.
                  
        Chỉ biết ngậm ngùi, tôi đẩy cửa bước ra ngoài. Gió mỗi lúc mỗi mạnh thổi nghiêng ngả hàng cây trụi lá đứng chơ vơ hai bên đường. Cái băng giá ngoài trời làm tăng thêm nỗi u hoài trong tôi. Lê đôi chân nặng trĩu, tôi bước đi dưới bầu trời đang cơn bão tuyết. Từng mảnh tuyết hắt vào mặt tôi như những mảnh vỡ thủy tinh thay nhau cứa vào da thịt tôi rát buốt. Tôi vuốt mặt, tuyết tan ra nhơn nhớt trên đôi tay. Bất giác, tôi có cảm tưởng  như máu và đất trộn lẫn nhầy nhụa trên tay tôi ngày nào đã vuốt mắt cho Mỹ khi xác anh nằm bất động trên bờ sông Côn. Tôi lau nhanh những giọt lệ đọng bờ mi trước khi bước lên chiếc xe bus cửa mở sẵn đợi chờ.


...






Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1757 - 01. Mar 2010 , 20:35
 





Cỏ úa

Trình bày : Lâm Thúy Vân & Don Hồ 


Xin bấm vào hình


...


Nhạc phẩm #485

Còn nhớ tên nhau xin gọi trong giấc mộng.
Còn chút thương yêu xin đưa vào dư âm.
Có phải còn yêu vì đôi lần thầm nhớ.
Mình đã thầm quên cớ sao lòng vẫn chờ.
Từ lúc em đi trong rượu cay men nồng.
Màu trắng khăn tang quanh căn phòng cô đơn.
Bão tố triền miên ngày em về nhà đó.
Buồn hắc buồn hiu ngõ đêm sầu cô liu.
ĐK..
Một chiều trên đồi em làm thơ,
Cỏ biết tương tư vàng úa.
Mộng dệt theo đàn bên người mới.
Mới biết mình yêu bao giờ.
...
Hởi cố nhân ơi chuyện thần tien xa vời.
Tình đã như vôi mong chi còn chung đôi.
Cứ cuối mặt đi để nghe đời lầm lỡ.
Đừng níu thời gian cho them sầu vương mang.


thanks.gif



Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1758 - 01. Mar 2010 , 20:49
 





Lệ úa

Trình bày : Khánh Hà 


Xin bấm vào hình


...


Nhạc phẩm #486

Giọt lệ này, em giành cho ai
Khi dòng sông chia hai lối rẽ.
Giọt lệ này, xin giành cho em
Khóc người thương, khóc ai phụ mình.
Ru bên đời, mảnh tình xót xa
Phút giây nào, xao động trong ta.

ĐK:

Bây giờ chỉ còn, còn lại đây đôi dòng lệ úa
Còn lại đây trong tiếng thở dài
Còn lại đây với những đoạ đày
Khuya em về đường tình rẽ đôi
Hai phương trời xa biệt mù khơi.

Người đợi người đếm thời gian trôi
Câu tình ca ru em vào đời.
Người đợi người xin nhặt lá rơi
Người đành sao nỡ phụ lời thề.



thanks.gif


Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa
Reply #1759 - 01. Mar 2010 , 21:18
 


Truyện đọc của GHH ngày hôm nay

Chàng trai Mỹ mê hát xẩm


Xin bấm vào hình để nghe Hát Xẩm

...




   
Giữa quán cà phê ven hồ, Andrew Talle - chàng trai người Mỹ ngân nga những bài thơ Chân quê, Lỡ bước sang ngang… của Nguyễn Bính bằng thứ tiếng Việt rất sõi. Đôi mắt và khuôn mặt anh cũng đầy cảm xúc như thể mối tình trái ngang trong thơ Nguyễn Bính là của chính mình.
Anh bảo đã phải lòng thơ Nguyễn Bính từ thời gian làm luận văn thạc sĩ về ngâm thơ Việt Nam. Qua tiếng ngâm, thơ Nguyễn Bính càng hay, càng đẹp và càng gần gũi, dù bài nào cũng chất chứa tâm tư của một người “nhà quê”

Học tiếng Việt để nghiên cứu thơ ca

Trong Festival nghệ thuật đường phố diễn ra ở Hà Nội cuối tháng 10/2009, không ít người dân “mắt tròn mắt dẹt” khi thấy một “ông Tây” mắt xanh, tóc vàng, mũi lõ mặc áo the khăn xếp trong gian lều ca trù và hát xẩm. Anh có thể nói hàng giờ về âm nhạc Việt Nam bằng tiếng Việt, với đầy vẻ hào hứng. Đó là Andrew Talle.



...

Chàng trai Mỹ Andrew Talle.



Andrew Talle bắt đầu tình yêu với tiếng Việt từ tiếng ngâm thơ của những người phụ nữ gốc Việt tại bang Chicago, nơi anh sinh sống. Năm 1992 - 1993, Andrew Talle quyết định tìm thầy dạy tiếng trong cộng đồng hơn 15.000 người Việt ở Chicago và học rất nhanh thứ ngôn ngữ “phong ba bão táp” này.
Giỏi tiếng Việt, có điều kiện tiếp xúc với người Việt Nam tại Mỹ, Andrew lang thang khắp nơi, gặp gỡ nhiều người, nghe họ ngâm thơ và ghi âm. Anh nghiền ngẫm, phân tích sâu mối quan hệ giữa thanh điệu tiếng Việt với các nốt nhạc và quá trình chuyển hóa bài thơ thành nhạc. Càng nghe, càng tìm hiểu, anh càng thấm nét văn hóa này, dù khi đó chưa từng tới Việt Nam. Công trình luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học về đề tài nói trên của anh được đánh giá cao tại Đại học Northwestern.

Năm 1997, Andrew xin được học bổng Blackemore Foundation của Mỹ sang Việt Nam học tiếng tại Đại học Huế và sau là Đại học Sư phạm Hà Nội. Cũng trong thời gian đó, anh gặp được nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền và học về âm nhạc truyền thống Việt Nam.

Nghe xẩm một lần mê ngay

Trong 11 tháng ở Việt Nam, Andrew tranh thủ thời giờ rong ruổi khắp ba miền, đi điền dã các lễ hội. Anh đặc biệt thích lễ hội Chử Đồng Tử. Anh ghi âm và quay phim về nhạc tài tử cải lương Nam Bộ, gặp các nghệ sĩ Bảy Bá, Văn Giỏi, Ba Tu, Thanh Hải, nhóm tài tử quận 8, Nghệ sĩ nhân dân Thanh Hoài, Kim Sinh… Andrew nói anh rất thích nghe tân cổ giao duyên vì “trong đó có hai nền âm nhạc giao hòa, vừa có  tranh, nhị, bầu, sáo, vừa có hát theo kiểu hiện đại, rất thú vị”.

Andrew thích tiếng đàn khi nức nở, mùi mẫn, khi phóng khoáng, lả lướt của danh cầm Văn Giỏi. Không những thế, theo Andrew, nghệ sĩ đàn cải lương khiếm thị này trò chuyện rất có duyên. Ông chỉ gọi anh là “Riu”, vì “cái tên “Tây” Andrew Talle khó nhớ, khó phát âm quá, cứ gọi tắt như vậy cho tiện”. Thỉnh thoảng ông Văn Giỏi vẫn nhắc, không biết giờ này thằng Riu đã có người yêu hay vợ con chưa.

Trong nhiều loại hình cổ nhạc Việt Nam, Andrew yêu thích nhất hát xẩm, dù anh chủ yếu nghe qua băng đĩa và mới một lần được tận tai nghe nghệ nhân Hà Thị Cầu hát. Anh nhận xét: “Nhịp điệu hát xẩm vừa đơn giản, vừa bình dân, nhưng chứa đựng nhiều triết lý cũng như kỹ thuật cao siêu”. Hơn nữa, xẩm là một trong những loại hình âm nhạc của quần chúng, điều Andrew đặc biệt quan tâm trong quá trình nghiên cứu. “Nghe xẩm một lần là tôi “mê” ngay, không thể lý giải nổi vì sao, nhất là trước những ca khúc như Xẩm thập ân, Trống quân, Ngược đời…”, anh nói.



...

Một buổi biểu diễn hát xẩm của các nghệ nhân.



Andrew đang viết một cuốn sách về âm nhạc thời Johann Sebastian Bach, trong đó, anh chú trọng âm nhạc ngoài đường, ngoài cửa sổ hơn là của nhạc sĩ trứ danh. Anh còn lần tìm những hồ sơ trong các nhà tù xem tù nhân hát nội dung gì, dùng nhạc cụ gì, hát bao lâu… Qua nghiên cứu, anh thấy rằng, thời đó, dân chúng thích hát rong hơn nhạc của Bach.

Andrew cho biết, sắp tới, anh sẽ dành thời gian nghiên cứu về hát xẩm. Do tài liệu về bộ môn nghệ thuật này ở Việt Nam không có nhiều, anh sẽ tới các bảo tàng lớn ở Pháp để tìm những tài liệu gốc, với hình ảnh, âm thanh, các nghiên cứu, tư liệu, nhật ký, thậm chí là hồ sơ nhà tù… để hiểu kỹ loại hình âm nhạc độc đáo này


...






Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa
Reply #1760 - 02. Mar 2010 , 12:06
 

...

Yêu là đi tìm thương đau
Thế mà thiên hạ vẫn cứ thế
lao đầu vào mà iu...đến chít... Grin.


Truyện đọc của GHH ngày hôm nay

Người Tình
The Lover/L'Amant

Lê Mỹ Hân


...[/url]




   
Tan giờ làm, Hằng lao vội ra nhà ga, chỉ cần chậm chân vài giây thôi thì coi như toi nửa ngày công cho một cuộc taxi về nhà (đó chỉ là tính 2 ga chót cho một chặng đường xe điện dài tới 28 ga, chứ nếu tính tiền taxi từ quán ăn về đến nhà thì đúng bằng 2 ngày làm công của Hằng). Ở Nhật Bản cái gì cũng mắc mỏ, nhưng riêng tiền phí taxi là mắc nhất, cao gấp 30 lần so với phí đi bằng xe điện hay xe bus. Bởi vậy, mỗi lần rời quán là Hằng chạy như ma đuổi, mặc dù nhà ga nằm kế bên chừng 3, 4  phút là tới.

- Hằng… Hằng!

Nghe tiếng gọi mình, Hằng ngoái cổ lại. Quy đang hớt hải đuổi theo sau lưng cô. Hằng vừa bước vừa chỉ vào đồng hồ đeo trên cánh tay, nói với lại:

- Em không còn thời gian nữa, chuyến tầu chót gần kề rồi.

- Còn mà, Quy giơ xâu chìa khoá lên, lúc lắc.

Hằng dừng hẳn lại, thở phì phò. Lúc này Quy đã tiến sát gần cô. Hằng trách khéo:

- Anh đi xe sao không nhắn tin cho em biết trước.

– Anh có nhắn cho em đó chứ.

– Nhắn hồi nào, chỉ thấy anh ghi đợi em gần quán cơm bò thôi. Tuy nói vậy nhưng Hằng móc điện thoại ra xem lại tin nhắn.

- À đây rồi! Xin lỗi anh, em bận quá không có thời giờ xem tin nhắn của anh. Nếu biết anh đón em bằng xe nhà thì đâu cần chạy như ma đuổi thế này.

Hằng cười thật tươi, nắm tay Quy đi ngược lại hướng nhà ga. Lúc này cô mới để ý Quy chỉ mặc duy nhất chiếc áo sơ mi mỏng tanh.

– Trời lạnh thế này, sao anh ăn bận phong phanh vậy?

- Anh ngồi trong xe chờ em nên không lạnh, thấy em quẹo qua nhà ga nên anh phải chạy vội theo.

- Anh ăn cơm chưa?

Quy gật đầu.

- Em đói quá! Hồi chiều có mang theo cơm mà  không kịp ăn, lại để quên trên chỗ làm mất rồi.

Nghe Hằng nói vậy, Quy kéo cô rẽ vào cửa hàng 7/11 ngay gần đó. Hằng chọn một phần cơm, một chai nước trà nóng. Quy trả tiền, và cả hai cùng bước ra khỏi cửa tiến về chiếc xe màu xám bạc đang đậu cách đó không xa.

Hằng mở cửa xe định bước vào, cô bỗng khựng lại vì ngay ghế ngồi một bông hoa hồng được bọc giấy kiếng rất đẹp đặt trên hộp quà vuông vức. Quy nhìn cô mỉm cười:

- Chúc mừng sinh nhật em!

Hằng lặng người đi, ừ phải rồi, hôm nay đúng là ngày sinh nhật của mình. Nhưng đã từ lâu rồi cô không còn để ý đến ngày sinh nhật làm gì nữa. Sống ở cái thành phố đắt đỏ nhất thế giới này, việc kiếm đủ sống đã là chật vật mà cô còn đèo bồng thêm cả gia đình bên Việt Nam, nên lúc nào cũng thiếu trước hụt sau, làm gì còn thời gian để ý đến ngày sinh nhật nữa. Hằng ngước nhìn Quy, mắt rưng rưng, cô thật sự cảm động vì lâu quá rồi chẳng có ai quan tâm tới mình như anh.

- Cảm ơn anh!

Quy nhấc hộp quà và bông hoa lên để Hằng có chỗ ngồi. Đón nhận lại từ tay anh, cô ngập ngừng:

- Em có thể mở nó ra chứ ?

- Dĩ nhiên, nó thuộc về em mà.

Hằng nhẹ nhàng tháo sợi dây ruy băng màu hồng buộc trên hộp quà, xé tung mảnh giấy bọc bên ngoài. Hộp nhung màu đỏ sậm hiện ra trước mắt, cô mở nó ra, một sợi giây chuyền bằng vàng 18k mỏng manh lồng bên trong cái mặt hình trái tim. Hằng thốt lên:

- Ôi đẹp quá! Cảm ơn anh.

Cô nhào qua, vịn lấy cổ chàng hôn tới tấp. Quy ngượng ngùng đẩy cô ra, khẽ nói:

- Em, người ta nhìn mình kìa!

Hằng phá ra cười:

- Anh cũng biết mắc cỡ hả?

Tuy nói vậy, cô cũng buông Quy ra, ngả người trên ghế mở nắp chai nước trà tu một hơi. Không nhìn Quy, cô nói:

いただきます (câu mời trước bữa ăn của người Nhật)

Cô bóc vỏ nắm cơm cho lên miệng, nhai ngon lành. Quy khởi động máy xe và từ từ nhấn ga cho xe lăn bánh chạy ra xa lộ. Hằng ăn xong nắm cơm, lôi hộp mỹ phẩm ra ngó lại dung nhan mình. Cô phủ thêm một lớp phấn trên gương mặt bóng nhẫy dầu nhờn, vẽ lại cặp chân mày bị lem khúc đuôi, thoa son lên đôi  môi khô ran vì thời tiết lạnh. Quy nhìn cô mỉm cười, hỏi:

- Em dự tính đi đâu nữa mà trang điểm?

- Về nhà chứ đi đâu, nhưng em muốn đẹp hơn khi ở bên anh.

Hằng đưa bàn tay ra để nắm lấy tay Quy. Kể từ khi quen biết nhau đến nay, Hằng vẫn thích được nắm tay anh dung dăng bước trên đường phố. Bên anh, cô dường như được sống lại tuổi đôi mươi, cái tuổi chớm yêu đương luôn nhìn đời bằng một màu hồng em dịu.

Quy kéo tay người tình về gần phía mình, đưa lên môi hôn nhẹ. Hằng nhìn sang phía anh, mỉm cười mãn nguyện. Quy vẫn chăm chú nhìn về phía trước, anh cất tiếng hỏi cô:

- Mấy giờ rồi em?

Hằng liếc đồng hồ, trả lời:

- 11 giờ 55 phút. Có chuyện gì không anh?

- Không có gì, chỉ là ít phút nữa thì tháp Tokyo sẽ tắt điện.

Đúng là Tháp Tokyo hiện ra sừng sững phía trước mặt, toàn thân tỏa ra một mầu vàng rực của hàng ngàn bóng đèn điện. Tokyo về đêm quả là đẹp! Hiếm lắm Hằng mới có dịp chiêm ngưỡng thành phố về đêm thế này, thường ngày cô đi làm bằng xe điện ngầm dưới lòng đất.

- 1, 2, 3… bòm!

Tháp biến mất vào trong lòng thành phố rực rỡ ánh đèn màu. Như thường lệ, tháp được thắp đèn vào 7 tối và tắt đèn vào đúng 12 giờ khuya.

Quy tắp xe vào trạm nghỉ chân đầu tiên trên xa lộ. Xung quanh, có khá nhiều xe đã đậu từ trước. Hằng nhìn quanh quẩn, thắc mắc:

- Bữa nay là ngày gì mà sao tụi híp pi này luẩn quẩn ở đây nhiều vậy?

Quy nhún vai lắc đầu. Anh tháo sợi dây an toàn, kéo Hằng về gần phía mình nhìn cô trìu mến. Hằng ngước nhìn anh, mỉm cười. Quy vòng tay ôm chặt lấy cô và đặt lên môi cô nụ hôn ngọt ngào. Hằng rùng mình như có một luồng điện chạy ngang, khép hờ đôi mắt. Quy thì thầm bên tai cô:

- Anh nhớ nhiều lắm, em biết không?

Hằng không trả lời, chỉ gật đầu. Từ ngày quen anh đến nay, cô chưa bao giờ cất lời yêu anh, mặc dù cô vẫn thèm được ở bên anh, thèm được uống những giọt mật ngọt ngào từ nụ hôn của anh, thèm được anh vuốt ve, thì thầm những lời yêu thương nồng cháy. Bên anh, cô mới khám phá ra ham muốn của thể xác mà cô dường như quên bẵng đi bấy lâu nay.

Quy vẫn siết chặt người tình trong tay, hôn tới tấp như chưa từng được hôn cô lần nào. Bàn tay Quy tham lam luồn dưới lần áo lót, bầu ngực của Hằng căng ra, phập phồng trong tay anh, toàn thân cô nóng hổi, hơi thở dồn dập hơn. Quy biết, Hằng cũng đang thèm khát như mình. Anh lại siết cô mạnh hơn, thốt lên:

- 欲しな! (thèm quá!)

Hằng phì cười, hỏi:

- 何欲しい (anh thèm cái gì nào?)

- すべてが欲しい (tất cả)

Hằng đẩy Quy ra, đưa bàn tay vuốt nhẹ lên má anh. Với cô, anh đúng là một mẫu người đàn ông lý tưởng mà cô hằng mong muốn nếu như… anh còn độc thân. Hằng lại thở hắt ra khi nghĩ đến điều này, định mệnh thật trớ trêu khi những người đàn ông lọt vào mắt cô thì lại gặp nhiều vấn đề rắc rồi, hoặc là họ đã có gia đình. Quy cũng không ngoại lệ, anh chẳng những đã có vợ mà còn đẻ tới 5 đứa con, lít nhít cách nhau vài tuổi.

Nghĩ đến vợ con anh, tự nhiên cô mất hết cả hứng, cứ như vừa bị ai đó tạt vào mình một thùng nước lạnh. Cô buông hẳn Quy ra và ngả người trên ghế nhìn về phía trước mặt.

Hồi mới quen Quy, nghe anh bảo có năm đứa con thì Hằng cho là anh xạo, thời này ai mà dám đẻ nhiều. Đến khi Quy móc trong bóp tấm hình chụp chung với năm con ra làm bằng chứng thì chính cô phải lắc đầu lè lưỡi: “Người đâu mà ham đẻ!”. Hằng rất ghét những gã đàn ông nào có vợ rồi mà còn theo tán tỉnh cô. Thế nhưng “ghét của nào trời trao của đó” nên bây giờ mới lâm vào tình huống này. Thực ra, Hằng không ghen với vợ con Quy, nhưng lại tủi thân khi mỗi lần nghĩ đến. Đã nhiều lần Hằng muốn chấm dứt mối tình này nhưng… rốt cuộc thì cô vẫn cứ ở bên anh như bây giờ.

Đôi khi, cô tự hỏi rằng có thật là mình yêu Quy không, hay chỉ vì Quy giống Tú quá, Quy đối xử với cô chu đáo quá (?) Thật sự cô vẫn chưa tìm được câu trả lời cho chính mình.

Lần đầu tiên nhìn thấy Quy, Hằng tròn xoe mắt kinh ngạc tưởng người chết đội mồ trở về. Chỉ đến lúc Quy cất tiếng hỏi thì cô mới nhận ra rằng anh không phải là Tú. Hằng lẩm bẩm một mình  sao trên đời này người lại giống người đến như vậy!

Hằng nhắm mắt lại, hai giọt lệ từ từ lăn dài trên má. Tú như đang đứng trước mặt cô và ký ức cũ bỗng tràn về như nước lũ.

Ngày ấy, cái ngày mà Hằng còn là hoa khôi của khu phố. Trước hẻm nhà cô tối nào cũng lảng vảng vài anh tới trồng cây si, đôi khi họ tấn công lẫn nhau, tung chưởng cứ như phim Tàu chỉ vì anh nào cũng muốn chiếm được trái tim người đẹp. Hằng vẫn bình thản, lạnh lùng chẳng hề tỏ thái độ, bởi vì cô biết Tú đã nằm trọn trong trái tim mình.

Tú và Hằng học chung một trường từ thời còn trung học. Nhà Tú ở ngay đối diện hẻm nhà cô, căn nhà bốn tầng lầu bề thế nằm ngay mặt tiền đường buôn bán hàng điện tử lúc nào cũng tấp nập khách ra vào. Bố Tú làm quan to, mẹ giỏi giang buôn bán nên anh có một cuộc sống sang giàu khác hẳn gia cảnh nhà Hằng. Tú lại là con trai độc nhất trong 3 chị em nên hầu như Tú có tất cả những gì mình muốn.

Hằng thì khác, căn nhà lụp xụp nằm tuốt luốt trong hẻm cụt trông thật tiều tụy. Bố Hằng đạp xích lô, còn mẹ thì có gánh bún mắm bán ngay đầu hẻm. Từ nhỏ, cô vẫn thường thức khuya dạy sớm đỡ đần mẹ. Hằng là chị hai trong nhà nên ngoài giờ đi học thì việc lớn việc nhỏ ở nhà một tay cô cáng đáng hết. Tuy nhà nghèo ít có thời gian học hành nhưng trời lại ban cho cô một trí thông minh hiếm có, Hằng luôn luôn là học sinh giỏi của trường và cô từng đoạt giải nhì Văn toàn quốc.

Tú hơn Hằng hai tuổi, học trên cô hai lớp. Tú bắt đầu để ý đến cô bé lớp 10A5 có mái tóc mây dài óng mượt và gương mặt đẹp não nùng. Một lần, Tú băng qua đường gọi tô bún mắm giùm mẹ, anh phát hiện cô bé là con gái bà bán bún mắm. Từ đó, Tú hay đến gánh bún của mẹ con Hằng ăn sáng. Tú không dám bắt chuyện nhưng thường lén lút nhìn Hằng. Đôi lúc, chạm ánh mắt của Tú, cô ngượng ngùng quay đi nhưng trong lòng dậy lên một cảm xúc khó tả. Thời gian cứ như vậy trôi đi, mãi đến khi Hằng được tuyển thẳng vào trường đại học Sư Phạm, Tú mới dám ngỏ lời yêu Hằng.

Tình yêu của hai đứa đẹp như nụ hồng vừa chớm nở, Hằng sung sướng ngất ngây trong men tình đầu đời. Bao nhiêu ước mơ, bao viễn ảnh về một tương lai tươi sáng đang chờ đón cô giáo tương lai. Hằng dấu biệt chuyện tình của mình, nhưng rồi vẫn bị mẹ phát hiện. Một buổi tối mẹ gọi con gái vào tâm sự:

- Con yêu Tú phải không?

Hằng ngập ngừng. Mẹ tiếp lời:

- Nhà mình không xứng với người ta đâu, mẹ chỉ sợ con khổ. Thôi kiếm cái chỗ nào môn đăng hộ đối con à, nhà mình nghèo lắm!

Hằng im lặng, điều mẹ nhắc nhở cô đã từng nghĩ đến. Và chính bản thân Tú cũng lo sợ bị gia đình ngăn cản, nên mỗi lần hẹn hò thì Hằng phải đi bộ ra tuốt ngoài ngã tư chờ anh đến đón. Hai năm trời thầm lén yêu nhau, cô giữ kín mối tình cả với gia đình mình, cả với bạn bè thế mà vẫn không qua mắt được mẹ.

Năm Hằng tốt nghiệp đại học thì biến cô ập đến gia đình, Ba cô bị tai nạn chết trong một lần đạp xe rước khách. Cô đau lòng nhìn mẹ quằn quại bên xác ba, nhìn lũ em thơ ngây đầu chít khăn xô trắng toát, nhìn lại gia cảnh rách nát tả tơi nhà mình mà bất lực, không biết làm gì để giúp mẹ và các em thoát khỏi cảnh túng bấn này.

Nỗi đau mất ba chưa nguôi ngoai thì một hôm Hằng được mẹ của Tú mời đến nhà nói chuyện.  Lần đầu tiên Hằng rụt rè bước chân đến căn nhà bề thế. Linh cảm cho cô biết chuyện chẳng hay sẽ xảy ra. Cho dù hai đứa kín đáo đến mấy thì vẫn bị mẹ Tú phát hiện.

Mẹ Tú trong bộ đồ sang trọng người đeo đầy nữ trang mắc tiền, ngồi vắt chân chữ ngũ trên bộ ghế salon, ngoắc tay mời Hằng ngồi. Chẳng nói chẳng rằng, bà thẩy trước mặt Hằng một bao thơ dầy cộp. Hằng ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra, thì bằng giọng Bắc kỳ the thé, bá rít trong kẽ răng:

- Tiền đấy, tất cả là của chị nếu…

Bà ngưng lại chiếu ánh mắt sắc lẹm nhìn về phía Hằng:

- Nếu chị chịu buông tha thằng Tú nhà tôi ra.

Hằng ngập ngừng:

- Nhưng…

- Chẳng có nhưng gì hết, chị tự nhìn lại bản thân mình đi, chị đâu có xứng với con trai tôi.

Hằng không dám nhìn thẳng vào mặt mẹ Tú. Cô cúi gằm xuống, hai bàn tay thừa thãi mân mê vạt áo. Yêu Tú, cô cũng từng băn khoăn trong lòng vì hoàn cảnh gia đình nhà mình, nhưng Tú cứ gạt băng đi khi mỗi lần cô đề cập đến.

-  Thằng Tú nhà tôi là con vàng con ngọc. Tôi không muốn mất mặt khi làm xui với bà bán bún mắm đầu đường. Chị hiểu cho hoàn cảnh nhà tôi?

Hằng vẫn im lặng. Thật sự, cô không biết phải nói gì. Mẹ Tú lại tấn công:

- Thôi, coi như tôi xin chị vậy. Mọi việc là do chị quyết định. Một là chị cầm số tiền này về lo cho gia đình nếu không nghe tôi thì đừng có trách.

Hằng đứng bật dậy, nước mắt trào ra , bao uất ức khiến cô nghẹn ngào không thốt nên lời. Cô vụt bỏ chạy.

Tối hôm đó Hằng không ngủ được, cô lặng lẽ ngồi bên bàn thờ ba. Ba đột ngột mất đi trút thêm gánh nặng gia đình lên vai mẹ. Cô lại chưa kiếm được việc làm. Mẹ yếu đuối quá! Thương mẹ quá! Tối nào mẹ cũng khóc rấm dứt cả đêm, mắt mẹ thâm quầng, tóc bạc phếch. Hằng không muốn xa mẹ, xa các em, và nhất là phải xa Tú. Nhưng chẳng còn lựa chọn nào nữa, lời cay nghiệt hồi chiều của mẹ Tú cứ vang vảng bên tai cô. Nếu Hằng quyết định theo Tú thì cũng chẳng hạnh phúc gì khi có một bà mẹ chồng như vậy. Hơn thế nữa cô không giúp gì được gia đình mình. Hằng cắn chặt môi để khỏi bật khóc, cô yêu Tú, yêu bằng cả tấm lòng mình chứ không phải vì anh đẹp trai, con nhà giàu. Nghĩ đến lúc phải xa nhau lòng Hằng tan nát,  nhưng chuyện đã đến nước này rồi thì Hằng phải quyết định thôi.

Hằng tránh gặp mặt Tú, và bắt đầu tiến hành  theo kế hoạch sắp đặt của bà Lâm, bạn học cũ của mẹ.

Bà Lâm định cư tại Nhật, vừa mới trở về Việt Nam và có ghé qua nhà thăm mẹ Hằng. Nhìn gia cảnh của bạn, bà không cầm lòng nổi nên đã bàn với mẹ lo cho Hằng qua Nhật với bà. Bà Lâm lập gia đình hơi trễ nên con bà còn nhỏ quá, bà đành phải tìm cách đưa Hằng qua theo diện con rơi. Mọi thủ tục giấy tờ bà lo lót hết, Hằng nghiễm nhiên trở thành con gái bà, từ cô gái 22 tuổi được đổi lại còn có 17 tuổi. Cũng may là Hằng không già trước tuổi, và mấy ông Nhật hôm phỏng vấn quá dễ dãi.

Sáu tháng sau, Hằng có mặt ở Tokyo, choáng ngợp vì cái vẻ đẹp của một thành phố hiện đại. Hằng chỉ nghỉ ngơi được 3 ngày, bà Lâm xin cho Hằng một chân thợ trong nhà máy sản xuất xe hơi.

Hằng lao vào công việc như điên, làm quên thời gian để trốn chạy quá khứ, một phần cô muốn kiếm thật nhiều tiền để cho người ta đừng khinh rẻ gia đình mình. Và hơn nữa Hằng không muốn bóng hình của Tú cứ chập chờn trước mặt mỗi khi cô rảnh rỗi. Thế nhưng, càng cố quên thì Hằng lại càng nhớ thêm, nhớ Tú, nhớ mẹ, nhớ các em và cả nỗi nhớ quê nhà day dứt mỗi ngày hành hạ cô đến khổ sở. Hằng gầy rạc đi, mắt thâm quầng, thân hình tiều tụy.

Bà Lâm thương cô lắm nhưng cũng không biết làm cách gì để giúp Hằng thoát khỏi căn bệnh nhớ nhà bằng những lời an ủi. Bà đã từng trải qua nên hiểu và thông cảm cho Hằng, thôi thì thời gian cũng sẽ chữa lành vết thương cho nó.

Hồi bà xuống tàu vượt biển rồi may mắn được chính phủ Nhật nhận mang vào trại tị nạn, thời gian đó bà cũng khổ sở y như Hằng bây giờ. Rồi đến khi ông Lâm bỏ mẹ con bà đi theo “tiếng gọi con tim” bà lại thêm một lần choáng váng với nỗi đau không gì bù đắp được. Bởi vậy khi trở về Việt Nam, ghé thăm Vân (mẹ Hằng) bà không cầm lòng đặng nên quyết tâm giúp bạn đưa Hằng qua đây kiếm tiền phụ nuôi các em với mẹ.

Hai năm sau, Hằng đã bắt đầu nguôi dần nỗi đau dĩ vãng. Một bữa, cô vui mừng nhận được thư của cô em gái bên nhà gửi qua. Hằng mỉm cười mãn nguyện khi mẹ và các em đều khoẻ. Hơn nữa, nhờ số tiền cô tiết kiệm gửi về mà nay mẹ đã cho sửa lại căn nhà dột nát lúc trước. Cô thấy mình thật là may mắn, và cô càng quý trọng bà Lâm hơn. Thế nhưng, trong phần tái bút Hằng như không tin ở mắt mình, bàn tay cô run lên bần bật, những con chữ như nhảy múa trước mặt cô:

“Ps: à còn một chuyện nữa em cần báo tin cho chị biết, anh Tú đã chết được một tuần rồi. Em không biết nguyên nhân, nhưng đám ma to lắm chị ạ. Thôi chị cũng đừng buồn nữa, chị với anh Tú không có duyên phận. Mẹ cấm em không cho chị biết tin này nhưng em không muốn dấu chị.”

Hằng buông lá thư gục xuống, khóc nức nở: “Trời ơi… Tú, sao lại đến nông nỗi này… sao anh không đợi em kiếm thêm một số vốn rồi sẽ trở về với anh. Tại sao… tại sao???”

Tin Tú chết, một cú sốc quá nặng, cô tưởng chừng sẽ không bao giờ gượng dậy nổi sau một tuần nằm liệt giường. Thế nhưng Hằng vẫn phải sống, vẫn đi làm vì đằng sau cô còn mẹ, còn cả lũ em và món nợ ân tình của bà Lâm mà cô chưa trả được.

Sau này Hằng mới biết, vì quá thất vọng chuyện Hằng đi bỏ đi Nhật, Tú chán nản rồi lao vào nghiện ngập. Một hôm Tú bị sốc thuốc chết mặc dù gia đình kịp đưa vào bệnh viện. Hằng xót xa mỗi lần khi nghĩ đến người tình, là thanh niên trai tráng sao Tú yếu đuối quá! Chẳng lẽ anh không thể chờ đợi Hằng vài năm hay sao?

Ba năm sau Hằng lại mất bà Lâm, bà bị ung thư gan và chỉ phát bệnh hai tháng là chết.

Từ đó, Hằng thay bà Lâm chăm sóc cho hai em, cộng thêm gia đình bên Việt Nam và cả nỗi ám ảnh về cái chết của Tú mà Hằng hầu như quên luôn cả bản thân mình. Cô đã tìm cách đưa được hai đứa em ruột bên Việt Nam sang Nhật, hai đứa còn lại đã yên bề gia thất. Hằng coi như mình đã làm tròn bổn phận. Ngồi ngó lại thì cô đã thành "gái lỡ thì". Mười lăm năm bay qua cái vèo, Hằng không còn trẻ để tìm cho mình được một người chồng tâm đầu hợp ý, nếu nhắm mắt lấy bừa thì thà ở giá cho rồi. Cũng có nhiều đám bạn bè mai mối, nhưng sao Hằng vẫn không gật đầu ưng thuận mặc dù có “chàng già” trông cùng được. Cho đến ngày gặp Quy, chẳng biết duyên phận đưa đẩy làm sao mà Hằng lại phải lòng người đàn ông có vợ và năm đứa con này.



Quy thấy Hằng buông mình ra, gương mặt tối sầm lại thì anh hiểu rằng Hằng mặc cảm về chuyện vợ con mình. Quy xoay người lại chống khuỷu tay lên trên vô lăng xe, im lặng ngắm nhìn người đẹp. Quy khám phá ra một điều là mỗi khi Hằng buồn thì gương mặt nàng lạnh như băng và lại càng toát lên vẻ đẹp bí hiểm.

Thật tình mà nói thì Quy không có thói trăng hoa. Từ ngày kết hôn, anh chỉ biết đến công việc và về nhà với vợ con. Di chuyển công tác đi đâu, Quy cũng kéo theo toàn bộ gia đình. Anh không dư giả gì nhiều vì việc kiếm cơm nuôi đại gia đình chẳng phải là chuyện đơn giản, mặc dù anh là người giữ chức vụ thứ hai trong công ty. Quy làm việc theo nguyên tắc đâu ra đấy, nhân viên dưới quyền sợ anh một phép. Dạo gần đây kinh tế Nhật gặp khó khăn, áp lực công việc càng đè nặng lên vai anh khiến anh mệt mỏi, chán chường. Và chỉ có Hằng mới làm cho anh tìm được giây phút thanh thơi trong lòng. Quy biết mình có lỗi với vợ con nhưng thật lòng anh yêu Hằng, anh không cưỡng lại được sự cám dỗ của tình ái. Và có thể nó cũng chính là duyên phận đưa đẩy Quy đến với Hằng.

 

Lần đầu gặp Hằng ở quán ăn, Quy ngạc nhiên vì cái nhìn thất thần của cô gái đối với mình, cô này cứ làm như thể mình là ma quỷ. Nhưng cũng chỉ thoáng qua vài giây mà thôi, cô ta ghi xong phần thực đơn mình gọi là bỏ đi liền. Vì Hằng làm việc bán thời gian, mà Quy cũng ít đến đây ăn uống nên với anh cô vẫn là người xa lạ. Thi thoảng, anh thấy bóng cô vượt ngang qua bàn mang thức ăn hay ghi thực đơn cho khách. Gương mặt cô lúc nào cũng bình thản, ít cười. Ấy vậy mà bóng hình của Hằng lọt vào tâm trí của Quy lúc nào không hay. Từ đó Quy siêng năng lui tới quán ăn Hằng làm việc, chọn những buổi có mặt cô. Dần dà, anh đã làm quen và mời được người đẹp đi dạo phố. Từ khi nắm được bàn tay nàng, Quy đã bỏ nhiều thời gian tìm hiểu về Việt Nam, về văn hóa của người Việt Nam để cùng chia sẻ với nàng.

Một lần, anh đem khoe với Hằng về tấm ảnh của cô con gái út chụp trong ngày lễ cho thiếu nhi. Anh bảo rằng thường thì người Nhật sẽ bận quốc phục kimono, nhưng anh đã mua cho con bộ áo dài của người Việt. Xem xong tấm ảnh, Hằng nhìn Quy cười:

-Đây là bộ đồ sẩm của dân Tàu không phải áo dài của người Việt.

Quy ngượng ngùng đáp lời:

- Vậy mà người bán hàng bảo đó là áo dài của Việt Nam.

Cũng một lần khác Quy nhận được tin nhắn của Hằng than rằng bên cô ở trời đổ mưa tầm tã cả ngày nên cô buồn và cảm thấy cô đơn. Quy đã khuyên Hằng nên đón xem một phóng sự về Việt Nam trên đài NHK vào lúc 9 giờ tối, anh còn bảo chắc thú vị lắm! Và Quy cũng hăm hở đón xem, chưa đầy mười phút sau anh nhận được tin nhắn của Hằng viết rằng: " Anh có coi cái phóng sự đó không vậy? Em thì chẳng muốn mất thời gian với thứ rác ấy". Quy đọc xong cũng thấy hơi tự ái nên cố ngồi xem cho tới chót. Đây là lần đầu tiên anh đón coi phóng sự nói về quê hương của Hằng. Anh cũng đồng ý với nhận xét của cô, chỉ tốn thời gian vô ích.

Hằng nắm bàn tay Quy, bóp nhẹ:

- Về thôi anh, mai anh còn phải đi làm.

Quy ngó nhìn đồng hồ, rồi quay sang nhìn Hằng, mỉm cười:

- 時間です ( đến giờ rồi)

Quy ngồi ngay ngắn lại, đồng thời kéo dây an toàn chéo qua vai gài chặt. Bên cạnh, Hằng cũng làm động tác tương tự. Chiếc xe nổ máy và từ từ quẹo ra xa lộ chạy vù vù. Quy nói với Hằng:

- Em ngủ đi một giấc, lúc nào tới nhà anh sẽ đánh thức em dậy.

Hằng gật đầu, hạ chiếc ghế cho thấp xuống, cô cũng muốn chợp mắt một lát nhưng lại không sao ngủ được. Cô mỉm cười nhớ lại lần đầu tiên hẹn hò với Quy trên tuốt phố Akihabara. Phải thú thật rằng tuy Hằng sống ở Tokyo mười mấy năm nhưng cô lại không rành đường đi nước bước, nhất là xe điện. Từ nhà cô lên Akihabara chừng 40 phút đồng hồ thế mà cô đi lộn tùng phèo mất gần 2 tiếng mới đến được, báo hại Quy phải chờ muốt chỉ cà tha.

Lúc nghe Quy nhắc đến tên Akihabara làm Hằng ớn lạnh. Con phố này cách đó vài tháng, một gã đàn ông từ Shizuoka mướn xe lái đến rồi vung dao chém chết một lúc 8 mạng người, thêm 18 người bị thương. Khi bị bắt hắn khai do bực bội trong lòng nên thích giết người, chẳng cần biết đến ai, hễ nhìn thấy là hắn ta muốn chém giết.

Ngày hôm đó trời mưa như thác đổ. Quy phải quay về công ty lấy xe đưa cô lên thăm viếng Yokohama. Lần đầu tiên Hằng mới được leo lên chiếc xe dạo một vòng Tokyo, cũng là lần đầu tiên được nhìn thấy những cái hầm xuyên qua lòng biển dài hun hút. Ít khi nào Hằng gặp cơn mưa lớn đến như vậy, mưa mù mịt, mưa xối xả cho dù cái gạt nước di chuyển liên tục mà Hằng cũng khó ngắm được gì bên ngoài.

Tới được Yokohama trời vẫn tiếp tục mưa. Anh đưa cô tới một nhà hàng trên lầu cao chót vót của khu thương mại sầm uất nhất Yokohama, chọn cái bàn ngay cửa số để Hằng có thể nhìn xuống thành phố đang nhoè nhoẹt ánh đèn màu dưới cơn mưa.

Chiếc xe thắng kít lại làm Hằng bất ngờ chúi về phía trước. Khi ngẩng mặt lên Hằng nhận ra con lộ dẫn vào khu chung cư của mình. Cô nhẹ nhàng tháo dây an toàn, xoay người kéo Quy về phía mình và đặt lên môi anh nụ hôn.

- Em không muốn về nhà nữa.

- Anh cũng vậy, anh muốn được gần bên em như thế này.

- Nhưng phải về thôi, sáng mai anh còn đi làm mà, từ đây về nhà anh cũng cả tiếng rưỡi đồng hồ?

Quy gật đầu. Hằng buông hẳn anh ra, với tay lấy giỏ xách và mở cửa bước ra ngoài.

- Cảm ơn anh về món quà sinh nhật.

Cô nhắc lại, và giơ bông hoa hồng lên vẫy chào tạm biết Quy cho tới khi bóng chiếc xe khuất hẳn ở góc phố. Hằng quay đầu bước vội về phía chung cư. Công viên trước khu nhà cô ở tối thui, chắc là hệ thống điện đèn bị trục trặc gì đó.

Hằng mò mẫm đi trong bóng tối, tối đen như tương lai của chính mình.

Tokyo 25/2/2010
Lê Mỹ Hân

...






Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1761 - 02. Mar 2010 , 19:34
 





Paris em về

Trình bày : Thùy Dương


Xin bấm vào hình


...


Nhạc phẩm #487

Paris em về ngày chủ nhật này, thành phố buồn gầy
Mưa sụt sùi bay Paris em về mình anh ở đây tình em còn đây
Mãi hôm nay người theo người đi qua bên kia trời
Anh xin ấp ủ ngọt ngào chiếc hôn
Trên môi còn ấm vài giọt nước mắt trên mi còn đầy
Paris em về ngày chủ nhật này, tan lễ về chiều thánh đường
Buồn hiu Paris em về bàn tay tìm nhau, để như lòng đau phút chia lìa
Người theo người đi qua bên kia trời
Chuyện ta buồn vui anh xin ấp ủ ngọt ngào chiếc hôn
Trên môi còn ấm vài giọt nước mắt trên mi còn đầy
Paris em về , Paris em về...
Thành phố dung thân, của ánh đèn sáng và những mộng mơ
Paris muôn thuở gọi nhớ tên em...
Paris em về, người xa nguời rồi, trời cũng bùi ngùi,
Cũng buồn mùa thu Paris em về tình ơi còn đâu
Ngày vui chẳng lâu phút phai tàn
Rồi bên trời kia, sông Seine mơ màng
Từng con tàu xa mang theo hy vọng
Một lần dẫu không cho nhau được mấy
Và niềm cay đắng thôi không còn hoài

thanks.gif



Back to top
« Last Edit: 02. Mar 2010 , 19:35 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1762 - 02. Mar 2010 , 19:36
 





Paris và Em

Trình bày : Trần Thái Hoà


Xin bấm vào hình


...


Nhạc phẩm #488


thanks.gif



Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1763 - 02. Mar 2010 , 19:41
 





Paris, tình nở
Tác giả : Quách Vĩnh Thiên

Trình bày : Tố Hà


Xin bấm vào hình


...


Nhạc phẩm #489


thanks.gif



Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1764 - 02. Mar 2010 , 22:16
 


Tặng baby Jasmine nè...



Hành Trang Giã Từ
Tác giả : Trần Thiện Thanh

Trình bày : Như Quỳnh và Trường Vũ


Xin bấm vào hình


...


Nhạc phẩm #490

Đêm đã dần trôi có phải đây là giờ ta xa cách

Ai biết hai mình lặng yên cúi đầu chờ câu nói thương yêu

Em không nghe ngoài kia trời đông đã lên rồi bao lớp người đi

Đầu mây chân gió vai nặng gánh sông hồ

Còn bao lâu nữa xin em thôi hờn dỗi

Đây gói hành trang xếp lại cho tròn để anh di nhé

Xin chớ u buồn vì trong những ngày dài anh vắng bên em

Hôm nay tay cầm tay mình chưa nói chi nhiều trong lúc tạm xa

Rồi đêm khuya vắng em trở giấc mơ màng

Là khi em thấy nhiều ước mơ

Em xin trời đừng cho mưa rơi rơi

Đừng cho lệ hoen bờ mi người ấy

Nếu biết xuân không sang

Thì dám mơ chi nhiều

Mà một khi anh đã hứa yêu em

Thì đời còn những lúc sum vầy

Xá chi bao cách ngăn sau này

Giây phút biệt ly chớ để tâm hồn nặng câu lưu luyến

Anh hứa đêm về mùa xuân bất tận nở trên má em yêu

Nhưng xin em đừng quên từng đêm súng vang về

Trong giấc ngủ say

Là khi anh đã dâng nguồn sống cho đời

Và cho đôi lứa đẹp ước mơ

Anh xin trời đừng cho mưa rơi rơi....


thanks.gif



Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa
Reply #1765 - 03. Mar 2010 , 11:24
 

...

Câu chiện này chắc là
đứng núi nì trông núi nọ
Cỏ không bao giờ xanh bên kia

Thế mà thiên hạ vẫn cứ thế
lao đầu vào...... Grin.


Truyện đọc của GHH ngày hôm nay

Đi tìm vui thú điền viên
Tràm Cà Mau - Phần 1


...




   
Vợ chồng tôi đến Mỹ gần chẵn mười năm. Những lo lắng ban đầu vì sinh kế đã tạm quên. Cũng đã thực hiện được “cái mộng của người Mỹ” là mua được căn nhà khá khang trang. Thêm vào đó, tiền tiết kiệm trong ngân hàng khá dồi dào. Cũng nhờ công sức hai vợ chồng, làm ngày làm đêm, làm không quản ngại khó khăn, không ngại thứ bảy, chủ nhật, đêm khuya, cứ có việc là có làm, có tiền là có chúng tôi. Chúng tôi chưa biết chê làm việc phụ trội bao giờ. Một hôm chủ nhật rảnh rang, thức dậy muộn, còn nằm trên giường, hai vợ chồng nằm gác chân nói chuyện tầm phào. Vợ tôi hỏi:

“Anh có nhớ câu : Một mai một cuôc, một cần câu của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm hay của ông Nguyễn Khuyến ? Câu nầy tác giả muôn nói gì anh nhớ không ?”

Được một người nguyên là giáo sư Việt văn các lớp thi tú tài hỏi về văn chương, tôi cũng khoái chí , làm bộ hiểu biết, trả lời:

“Ông Nguyễn Khuyến hay Nguyễn Bĩnh Khiêm, không cần phải nhớ ai là tác giả làm chi cho mệt, cứ nhớ là ông Nguyễn thôi cũng đủ rồi. Câu thơ ca ngợi cái thú thanh nhàn khi sống nơi thôn dã.”

Vợ tôi nói tiếp :

“Ngày xưa, anh thường nói với em về giấc mơ khi đất nước hết chiến tranh. Chúng mình sẽ về quê, mua mấy mẫu ruông vườn, và vui thú điền viên. Sống đời thanh thản hạnh phúc. Anh còn nhớ không?”

“Ừ, thì nhớ chứ. Giấc mơ ấp ủ suốt một thời niên thiếu mà. Tiếc thay, sau khi hết mùa chinh chiến, thì đến mùa tù tội. Mà không tù tội, thì cũng không thể nào vui thú điền viên được trong cái xã hội vô cùng kỳ lạ, vô cùng gò ép con người đó. Nghĩ cũng tiếc.”

Vợ tôi nắm chặt tay tôi, nói với giọng tha thiết:

“Bây giờ mình muốn vui thú điền viên cũng đâu có muộn. Cái mộng anh ấp ủ ngày xưa có thể trở thành sự thực dễ dàng. Hay là mình bán nhà , mua một nông trại, lấy hết tiền tiết kiệm ra đầu tư vào chăn nuôi, trồng trọt. Nuôi các thứ gà vịt thả trong vườn, bán cho đồng hương Việt nam mình, trồng các thứ rau ráng mà người Mỹ không sản xuất như rau muống, bí bầu, bạc hà, tàng ô, rau răm, rau thơm vân vân, chiếm luôn độc quyền cung cấp cho thị trường. Và gởi máy bay chuyển hàng lên miền đông bắc, tây bắc nước Mỹ mà bán. Không chừng mau phát đạt, mà lại nhàn nhã, có cơ sở vững chắc cho con cái sau nầy tiếp nối.”

Nghe thì khoái, nhưng tôi thở dài:

“Em nghĩ cũng hay lắm. Nhưng anh tiếc công việc đang làm hiện tại. Lương bỗng cũng khá. Công việc làm đã quen. Mình trở thành chuyên viên rồi. Bỏ đi cũng uổng. Vã lại, công việc em đang làm cũng khá bền vững. Bỏ cái bền vững, đi tìm cái bấp bênh, anh cũng hơi ngại.”

Vợ tôi cũng thở dài, tiếng thở dài dài hơn và não nề hơn:

“Công ty em đang làm, cũng chuẩn bị dọn qua một xứ Nam Mỹ, có nhân công rẻ hơn , để cứu vản tình trạng thua lỗ từ mấy năm nay. Em chưa nói với anh, vì ngại anh lo.”

Tôi hỏi vợ:

“Ai bày cho em cái kế hoạch lui về làm nông trại, vui thú điền viên nầy? Em đã nghĩ kỹ chưa, và có chương trình kế hoạch gì trong đầu chưa?”

Vợ tôi trả tời tự nhiên:

“Không ai bày cả. Cách đây mấy tháng, một đêm mất ngủ, em bật truyền hình lên . Xem một phim kể về đời sống ở nông trại thời xưa. Sao mà thanh bình hạnh phúc như trong mộng. Đời sống dễ thương quá. Và những lần đi chợ Á Đông, em thấy họ bán rau muống, rau màu Việt Nam đắt như vàng . Bán khoai mì đắt như sâm nhung. Em nghĩ mình có một nông trại sản xuất ra các thứ hiếm hoi nầy mà cung cấp cho các chợ, thì có thể hốt tiền thiên hạ như hốt lá. Anh xem, những lần tiệc tùng họp bạn, mà có thịt gà tươi chạy bộ , ai ăn cũng khen rối rít, xít xoa. Đó là chưa kể mình nuôi vịt bán cho thiên hạ làm tiết canh. Mình cứ đánh đúng vào thị hiếu của họ, thì mặc sức mà hái ra tiền. Chỉ một thời gian ngắn thôi, là hai vợ chồng mình thanh nhàn sung sướng, thong thả, và khi đó thì có thể khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chứ không làm việc túi bụi như bây giờ.”

Nghe vợ vẽ vời hay quá, cái lãng mạn đã ngủ yên trong tôi bỗng dưng thức giấc xao xuyến. Thanh nhàn, sung sướng, ai mà không ưa, họa là khờ. Và lại còn khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chao ôi, đẹp quá chừng. Dù khoái tai với cái mông tưởng của vợ, tôi cũng thử vợ tôi thêm:

“Em cũng biết, nhà anh suốt mấy đời chưa hề làm nông, chưa ai cầm đến cái cuốc, cái cày. Ông nội anh là nhà nho thất chí, suốt một đời mang áo dài the, cắp cái dù đi lang thang nhà bạn bè bàn chuyện cần vương hưng quốc, ba anh thì là nhà giáo, anh suốt đời cầm bút làm việc trong văn phòng, có biết chi về canh nông, về chăn nuôi, mà dấn thân vào đó.”

Vợ tôi hăng hái thuyết phục thêm :

“Anh cũng đã từng bị đi tù cải tạo, học tập lao động mấy năm, cũng đã cuốc đất trồng khoai, cũng có chút kinh nghiệm phần nào rồi chứ. Việc nào rồi cũng quen đi. Anh xem, ngày mới qua Mỹ, mình đâu có biết việc gì, mà rồi việc gì khó khăn đến đâu, cũng làm được cả. Đi qua biển với ngàn hiểm nguy như thế, còn làm được, thì việc gì mà không làm được?”

“Nầy, sao cái luận điệu của em hao hao giống luân điệu của những kẽ tự xưng là nhân dân anh hùng, họ thường bảo rằng vượt Trường Sơn đánh Mỹ còn được, thì việc gì mà không làm được. Anh nói thêm cho em rõ, học tập lao động trong trại tù, là học được cái trây lười, cái làm cho có. Và nếu lao động như thế để kiếm ăn, thì đói cho vẫu mỏ ra.”

Cứ thế, vợ tôi nhẹ nhàng thuyết phục tôi về một cuộc đời vui thú điền viên, về cái hạnh phúc đơn sơ trong thanh nhàn, cái an bình trong tâm tưởng, được làm chủ lấy mình, không tùy thuộc vào công ăn việc làm của người khác, không lo kinh tế nay lên mai xuống, bấp bênh sụt trồi.

Thấy vợ tha thiết với nông trại, mà những vẽ vời của nàng cũng đẹp thật, tôi cũng muốn làm vui lòng vợ một lần. Vợ tôi đã khổ, đã chịu nhiều cay đắng trong đời khi chồng đi tù, khi chồng về tù , và đã theo tôi đi qua bao đoạn đường chông gai khó khăn của cuộc đời. Mơ ước của vợ tôi về cuộc sống nông trại, cũng rất chính đáng. Tôi bằng lòng bán nhà, mua đất làm ăn.

Chưa bán được nhà, mà chúng tôi đã được mấy ông hành nghề địa ốc lôi chạy. Chạy đôn chạy đáo theo mấy ông từ vùng nầy, qua vùng kia, để xem đất, để xem các bảng tính toán lỗ lời do các ông đưa ra. Hình như cuộc đất nào cũng tốt, cũng đem lại một tỉ suất lời cao. Cuối cùng, chúng tôi cũng mua được một sở đất năm mẫu, cách thành phố Dalas bảy mươi dặm về hướng bắc. Lái xe chừng hơn một giờ thì đến thấu.

Năm mẫu đất nằm giữa đồng không mông quạnh, gió thổi vun vút, mùa hè bụi lốc xoáy mù. Chủ đất và người hành nghề địa ốc dẫn tôi đi, lội cỏ lút đầu gối để chỉ các cột mốc ranh giới. Tôi và vợ đi theo, mà thở hồng hộc, vấp té mấy lần.

Học theo các chủ nông trại đi trước, chúng tôi mua một căn nhà tiền chế có ba phòng ngủ, hai phòng tắm và thuê xe kéo về đặt trên thửa đất. Căn nhà trông bên ngoài cũng rất mỹ thuật, đẹp đẻ. Phòng ốc bên trong xếp đặt rất hợp lý và sáng sủa. Ngồi trong nhà, không có cảm giác chi là căn nhà tiền chế. Vợ tôi khen, căn nhà nầy còn mới, và rộng không thua chi căn nhà cũ của chúng tôi. Nhìn cái xe của hãng sản xuất nhà tiền chế kéo cái nhà về đặt trên sở đất mà ngán. Cái nhà dài lòng thòng, và rộng bề ngang, kéo đi choán hết bề rộng mặt đường. Hãng phải xin giấy phép đặc biệt để kéo đi. Cái nhà về đến trước đường cái, chiếc xe từ từ nhích vào nơi chúng tôi muốn đặt căn nhà, mới chạy được một đoạn ngắn, thì bánh xe lún xuống đất bùn nhão nhẹt và quay tít. Lui không được mà tiến cũng không xong, tiếng máy xe gầm lên từng hồi như con thú bị thương. Thì ra vì trời mưa suốt tuần trước, làm đất mềm và nhão, không đủ sức cho bánh xe cán lên. Ông tài xế râu ria xồm xoàm và ăn mặc áo da, giống như mấy tay găng tơ trong phim xi nê nhảy xuống xe và chữi thề om xòm, làm như chính tôi là thủ phạm làm xe ông mắc lầy. Tôi lãng ra nơi khác, không muốn thấy cái thái độ thiếu lịch sự của gã. Ông đòi mượn ván gỗ để chêm bánh xe, tôi làm sao có được, y chạy lui chạy tới như gà mắc đẻ, rồi hét lớn;

“Tại sao không cho biết đất còn mềm, bây giờ làm sao mà lui ra đây?”

“Tôi làm sao mà biết được đất cứng hay mềm mà nói? Đâu phải là chuyện của tôi?”

“Thế thì cái nhà nầy của ai đây? Không phải của anh chắc?”

Ông tài xế lên xe, dùng điện thoại kêu về công ty và ngồi chờ. Chừng hơn một giờ sau, có chiếc xe khác tới phụ, lôi chiếc xe bị lún bùn ra. Cái nhà bị đẩy giật tới, giật lui, lúc lắc. Cuối cùng, cái nhà được tạm thời hạ xuống bên đường lề đường, và lấn ra, choán gần hết mặt lộ. Cái nhà nằm khơi khơi trên con đường trông rất chướng mắt. Ông tài xế bảo tôi:

“Cứ để tạm đó, chờ khi nào đất khô rồi kéo vào.”

Tôi vô cùng bối rối. Cái nhà choán mặt đường, xe cộ ngược chiều đi qua không thấy nhau, và phải nhường cho nhau đi qua trong một phần nhỏ hẹp của lòng đường còn lại. Mà chẳng có bảng hiệu, bảng thông báo trước để xe chuẩn bị mà tránh nhau.

“Thế thì bao giờ cái nhà mới được đem vào bên trong” Tôi lo ngại hỏi anh tài xế.

“Không biết. Chờ”

“Để ngoài đường như thế nầy rất nguy hiểm cho người lái xe. Lỡ họ tông hư nhà thì làm sao”

“Anh không phải lo” Ông tài xế trả lời tôi như nói với đứa con nít.

Không biết làm gì hơn, tôi cùng vợ lái xe về, mà trong lòng không yên. Hôm sau, chúng tôi đến lại cuộc đất, thì thấy cảnh sát đã gài giấy phạt, và hăm phạt tăng nhiều lần nếu còn để cái nhà choán đường lưu thông. Tôi đem giấy phạt về công ty bán nhà và than phiền với hãng. Ông chủ hãng nầy không tiếp tôi, mà giao cho người khác giải quyết. Anh chàng nầy nói năng rất từ tốn, bảo là hãng sẽ giải quyết ngay, đừng lo. Thế nhưng cả tuần sau, cái nhà mới được đưa đúng vào vị trí mong muốn. Tôi tưởng đặt nhà là ở được. Nhưng không. Đi tiêu đi tiểu và nước thải đổ vào đâu? Không lẽ lấy cuốc đào chút đất trong vườn, sau khi đi tiêu, lấp lại như ở nhà quê sao? Thế là phải chạy đi mua cái hầm tiêu tự hoại. Mua thì dễ, mà giấy phép đặt hầm cầu, thì có những chi tiết kỹ thuật bắt buộc phải cung cấp cho văn phòng quận . Lại mất thêm tiên cho công ty kỹ thuật lập hồ sơ. Cái nhà tiền chế bị dịch lui dịch tới nhiều lân, làm gảy các ống nhựa bắt sẵn bên trong, cho nên khi nối đường nước vào, thì nước chảy tung tóe. Ướt hết từ trong ra ngoài. Tôi đứng nhìn mà ngao ngán. Phải chờ thêm mấy ngày để chờ thợ ống nước đến sửa chửa.

Khi tôi đến công ty điện, công ty nước để xin nối điện, nối nước vào nhà, tôi mới giật mình thấy cái bảng ước tính chi phí bắt điện, bắt nước. Nhà tôi xa đường dây điện chính, phải trồng thêm nhiều trụ điện khác, mới chạy được đường dây vào. Tôi phải chịu phí tổn đó. Không ai nói trước cho tôi điều nầy. Dù chi phí cao đến mấy, tôi cũng phải cắn răng mà ký tên vào tờ giao kèo, thỏa thuận. Không lẻ phải mua máy điện riêng, lôi thôi chịu chi nỗi. Đã đâm lao thì phải theo lao, chứ làm sao bây giờ. Đường nước, thì tôi may mắn hơn, nước đã đến cách cuộc đất chúng tôi không xa lắm, nhưng cũng phải chi tiêu khá nhiều để chuyển nước từ ống chính vào. Công ty nước đào đất, chuyển ống đến đồng hồ mà thôi, sau đồng hồ nước là mình phải tự lo lấy. Thợ ống nước tính tiền ngọt lắm, đào xới, lắp ráp, sửa chửa, chút chút là đòi bạc trăm, bạc ngàn, mình không có dụng cụ, và không có kinh nghiệm, nên cứ cắn răng mà trả, có kêu ca cũng vô ích. Tôi đứng quan sát các anh thợ, để học lóm nghề, thì ra cũng dễ dàng như chơi. Chịu khó mua một ít dụng cụ, thì cũng có thể tự làm được. Nhờ học lóm, mà sau nầy, tôi tự chạy đường nước tưới cây trong vườn.

Bốn góc nhà, tôi bắt thêm bốn vòi nước, để dễ câu ra vườn. Đất mùa mưa nhão nhẹt, không chạy xe vào nhà được, tôi kêu xe đổ sạn trắng, làm thành một vòng cung ngay trước nhà. Cái đỉnh vòng cung là cửa vào nhà, hai chân vòng cung nối ra đường. Phải đặt ống cống cho nước trong mương bên lề đường thông thương. Khi xe vào vườn, chỉ cần chạy một chiều, vào bằng một cửa, ra bằng cửa khác. Vợ tôi ví cái đường vòng cung nầy với sân tòa Bạch Ốc, cũng sang trọng và đẹp không kém.

Vợ tôi sung sướng ngâm nga “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người tìm chốn lao xao”. Ngâm đi ngâm lại mãi. Vợ tôi bàn rằng, làm thêm một cái bệ gỗ bên cạnh nhà, che song gỗ bên trên , mùa hè ban đêm cả gia đình ra ngồi ngắm trăng, uống trà ăn kẹo ngọt, để nhớ miền quê Việt Nam. Cũng để xem ông thi sĩ miền Bắc nước ta, bốc thơm đàn anh Trung Quốc rằng “ Trăng nước Mỹ không đẹp bằng trăng Trung Quốc” có đúng không. Nghe đã lỗ tai, tôi mua gỗ về hì hục, cưa đóng cả tuần mới xong. Tốn tiền, mà sau nầy vì công việc nông trại tối mắt, tắt mày, chưa bao giờ có thì giờ rảnh ra ngồi ngắm trăng uống trà, chỉ có những khi mệt vã mồ hôi, ngồi bệt lên sàn nghỉ một chốc mà thôi.

Bây giờ thì phải làm hàng rào bao quanh khu vườn lại. Tôi mua cọc sắt, và lưới làm hàng rào. Loại cọc mà bên Việt nam mình kêu là cọc sắt ấp chiến lược, và loại lưới gọi là lưới B40. Nhìn vào bảng ước tính giá mua cọc và lưới mà mặt vợ tôi nhăn lại như ăn dấm chua. Cũng mất mười mấy ngàn đồng. Không thể chịu đựng nỗi chi phí nầy, tôi quyết định chỉ rào khu chăn nuôi thôi, còn khu trông trọt thì cứ để trống. Ai mà chạy xe ra đến đây để ăn cắp hoa màu cuả mình. Nước Mỹ chớ đâu phải châu Phi mà lo. Hãng bán cọc sắt và lưới đổ cho tôi một đống lớn trong vườn. Mình phải tự làm hàng rào lấy, chứ thuê thì tiền đâu mà chịu nỗi. Tôi mua búa tạ và thang xếp, làm thành cái dàn. Con gái tôi mới mười bốn tuổi, giúp bố giử cây cọc, tôi leo lên, dùng búa giáng xuống. Sức dộng của búa rung cây cọc sắt, làm tay con tôi đau buốt và buông cọc ra mà kêu thét lên. Tôi phải làm một nùi vải, chêm vào tay cho nó cầm. Cứ đóng vài ba búa, là thấy cọc có chiều nghiêng nghiêng, không đứng thẳng được. Tôi phải leo xuống, dùng dây dọi điều chỉnh rất khó khăn. Vợ tôi dứng nhìn và nói:

“Đóng cọc theo lối nầy, thì không chừng tốn cả năm trường mới xong được.”

Hai bàn tay tôi đỏ và sưng lên. Con gái tôi cũng nhăn nhó mặt mày vì cái trò chơi không mấy hứng thú nầy, và phải đứng ngoài nắng gió cả buổi. Để việc rào dậu chóng hoàn tất, tôi phải tính đến chuyện thuê người làm phụ. Tôi bàn với vợ, thuê một anh người Mễ. Vợ tôi ngại sẽ bị lôi thôi với pháp luật, vì thuê người nhập cảnh bất hợp pháp. Tôi bảo rằng, tôi không ra ứng cử dân biểu, nghị sĩ, thì sợ gì, có ai mất công mà tố cáo tôi thuê người nhập cảnh bât hợp pháp.

Sáng hôm sau, tôi lái xe về phía Nam nông trại, đi mất chừng hơn nửa giờ, đến gần khu có cây xăng, nơi đây các thanh niên người Nam Mỹ thường hay tụ tập, đứng lóng ngóng chờ người đến thuê đi làm. Xe tôi vừa đậu lại, thì có hơn hai chục thanh niên vây kín, lao nhao đòi đi làm. Có vài anh còn nhãy lên thùng xe ngồi đó. Không ai biết tiếng Anh, mà tôi thì mù tịt tiếng Mễ. Họ biết tôi cần người làm, tôi biết họ cần việc làm, nhưng không ai nói cho ai hiểu là phải làm việc gì. Tôi nhãy xuống xe, đứng cong lưng, hai tay đưa lên đưa xuống, ra dấu đóng cọc . Họ à à gật đầu và cười, nói “ Ô kê, ô kê”. Tôi ra dấu,đưa một ngón tay lên, bảo là chỉ cần một người thôi, thế mà bốn năm người nhảy lên thùng sau xe ngồi, và chục người khác bu theo nhao nhao, nói gì tôi không hiểu. Tôi chán quá, la lên và khoát tay, và lắc đầu, có ý bão họ là không thuê ai nửa cả, đòng thời ra dấu cho mấy người ngồi trên xe tôi đi xuống. Phải lâu lắm, tôi mới rời được đám người nầy. Khó quá, mình không biết nói, mà họ cũng không hiểu mình, và cứ đeo theo đòi đi làm. Tôi lái xe đi, giả vờ như không thấy những người Mễ hai bên đường đang ra dấu, hỏi tôi có thuê họ hay không. Dừng xe lại là họ nhào đến, không đi được. Tôi đang phân vân, chưa biết phải làm thế nào, thì thấy có một anh Mễ to lớn, mập mạp, đang đi một mình trên đường, tôi chạy xe chậm lại, và hất đầu làm dấu như hỏi anh ta có muốn đi làm viêc hay không. Anh vui vẻ gật đầu, tôi mở cửa cho anh lên xe, thì thấy có nhièu người khác chạy gấp về phía tôi, và la lên, có người níu xe. Tôi phải xua tay, và rồ máy chạy thẳng. Đến một góc đường xa, tôi dừng xe lại. Hỏi anh Mễ muốn tôi trả bao nhiêu một ngày. Hai bên không hiểu nhau, anh Mễ cứ đực mặt ra, như người điếc. Tự nhiên tôi cảm thương anh Mễ , vì anh làm tôi nhớ tới thời mới tới Mỹ, ai nói gì cũng không hiểu và chỉ cười. Tôi lấy giấy ra, ghi số tiền tôi muốn trả cho anh ngày hôm nay, cao hơn lương lao động tối thiểu chừng mười lăm phần trăm. Anh Mễ lắc đầu, ghi số tiền gấp đôi. Tôi ra dấu cho anh xuống xe. Anh lấy giấy ghi số tiền thấp hơn. Tôi lắc đầu. Cuối cùng, anh bằng lòng làm việc với số tiền công tôi ghi ban đầu.

Đi bốc người, vừa đi vừa về mất hơn hai giờ, rồi buổi chiều phải mang trả anh ta tại chỗ cũ nữa. Nhưng không thể làm việc một mình được.

Tôi dẫn anh Mễ vào, dắt đi quanh vườn, ra dấu cho anh biết là tôi sẽ đóng cọc hàng rào quanh khu nầy. Hai người nói chuyện với nhau bằng tay, ra dấu, và tôi nói tiếng Anh, anh ấy nói tiếng Mễ. Tôi cầm cọc sắt cho anh Mễ đóng. Tôi nghĩ là với cái tướng dáng to lớn vạm vở đó, anh chỉ đóng ba búa cho mỗi cọc, là đi tuốt xuông đất sâu. Nhưng không ngờ, anh Mễ dáng búa lên, và gõ nhẹ xuống cây cọc, như sợ cây cọc đau, cứ từ từ chầm chậm búa xuống, thong thả nhàn nhã và nhẹ nhàng. Đóng mãi mới xong được một cây cọc. Vợ tôi đứng nhìn. Khi đóng qua cây cọc thứ hai, thì vợ tôi hỏi:

“Anh ơi, ông Mễ múa thể dục Tài Chi hay sao mà yểu điệu và khoan thai thế. Đóng cọc theo lối nầy, thì biết đến thuỡ nào mới xong được?”

Tôi cũng nóng ruột với cái dáng điệu khoan thai của anh Mễ, kêu anh xuống thang, và bảo anh cầm cây cọc cho tôi đóng. Anh cầm cây cọc chắc lắm, tôi cứ đóng xuống là thẳng đứng. Ừ thì ít ra cũng xữ dụng được cái sở trường của anh nầy. Tôi tự an ủi là dùng người như dùng gỗ, dùng cái ưu điểm của anh ấy thôi. Chưa lao động quen, mồ hôi cứ vã ra như tắm, và tôi uống nước liên tục. Cứ nữa tiếng, là tôi nghỉ ngơi một chốc. Vợ tôi phàn nàn rằng, thuê người để họ làm, chứ đâu phải thuê người về vịn cây cọc. Sau nầy tôi mới được các bạn bè cho biết, họ làm theo đồng tiền được trả, khi cho là ít tiền, thì họ làm ít. Tiền nào của đó, và môt lý do nữa, là họ làm chậm, thì hy vọng công việc làm được nhiều ngày hơn.

Buổi chiều, trả tiền cho anh Mễ, anh kỳ kèo đòi thêm, cứ đưa tay ra mãi. Bực quá, tôi cho thêm năm đồng, anh vẫn chìa tay ra, tôi lắc đầu cương quyết không là không. Vợ tôi thấy tôi cho thêm tiền, tiếc của la lối:

“Không làm được gì mà anh còn cho thêm tiền ư?”

Vợ tôi kéo tôi ra nói nhỏ:

“Em nghĩ anh Mễ nầy không được lương thiện lắm. Cứ nhìn trộm em hoài., làm em sợ. Chắc mình phải mua súng, để tự vệ. Chứ nơi đồng không mông quạnh nầy, có chuyện gì xẫy ra chẵng biết làm sao.”

Tôi cảm thấy lo, nói cho vợ yên lòng:

“Ừ, để rồi tính sau. Dễ mà, xứ nầy mua bao nhiêu súng cũng được, bất cứ loại súng nào.”

Tôi ra dấu cho anh Mễ lên xe, để tôi chở trả anh về nơi cũ. Khi đến gần nơi xuống xe, anh nói : “ Mà nha na, mà nha na” ( manãna: ngày mai), có ý muốn ngày mai làm việc nữa. Tôi chỉ hiểu tiếng ngày mai thôi. Lắc đầu, tôi nói “ Nô mà nha na.”

Chẳng thể không thuê người phụ đóng cọc được, hôm sau tôi lái xe về nơi cũ. Khi đi ngang chỗ các anh Mễ, tôi gia tăng vận tốc chút xíu, thế mà cũng có những cánh tay đưa ra ngoắt tôi. Lòng tôi lại chợt chùng xuống, và thương những người lìa bỏ quê hương đi kiếm ăn. Tôi nghĩ đến thân phận mình may mắn hơn, được vào Mỹ hợp pháp ,được đi làm và cũng có cơ hội đồng đều như người Mỹ sinh trưởng tại đây. Tôi liếc mắt tìm những anh Mễ đứng đơn dộc, và chạy xe chậm lại kềm sát một người đang đi ngược chiều. Tôi hất đầu làm dấu, anh Mễ gật đầu. Tôi mừng vì anh nầy biết lỏm bỏm tiếng Anh. Tôi đưa giá, anh bằng lòng ngay. Anh nầy cao, gầy, rắn chắc, tên là Pedro.

Rút kinh nghiệm ngày hôm qua, tôi không nói trước là phải làm bao nhiêu hàng rào để họ khỏi tính chuyện câu giờ. Tôi giữ cọc sắt cho Pedro đóng xuống. Anh đóng ào ào, mỗi nhát búa tạ của anh làm cây sắt đâm sâu xuống đất, sâu gấp hai lần mỗi nhát búa của tôi. Tôi bằng lòng lắm. Vợ tôi đem nước cam và thức ăn, cùng trái cây ra đãi trong khi chúng tôi nghỉ xả hơi. Ngày hôm đó, chúng tôi đóng được gần ba lần ngày hôm trước. Vợ tôi vui ra mặt và nói với tôi:

“Sao anh không đề nghị cho Pedro làm khoán , có lẻ mình đỡ mệt, mà đi lo việc khác.”

Tôi cố gắng lắm mới nói cho Pedro hiểu. Anh bằng lòng làm, và cho một cái giá thấp mà tôi không ngờ được. Tôi chở Pedro về, và hẹn hôm sau trở lại đón lúc bảy giờ sáng. Hôm sau Pedro đem theo một người bạn, hai anh thay phiên nhau đóng cọc, và làm mãi cho đến khi trời tối mịt mới nghỉ. Tôi đải hai anh nầy cơm nước, bánh trái rất hậu. Vợ tôi nói “Ngày xưa Tào Tháo đải Quan Công e cũng chỉ đến thế mà thôi.” Chỉ mấy ngày, Pedro và bạn anh đã hoàn tất cái hàng rào. Họ còn nhổ lên và đóng lại những cái cọc xiên xẹo, những cái tôi đã đóng lúc đầu.

Hôm hoàn tất hàng rào, tôi làm tiệc đải Pedro, thịt nướng ăn với rau, có mấy chục lon bia trợ lực. Trả tiền, và tính lại thì tiết kiệm được rất nhiều tiền công, nếu thuê hãng chuyên môn rào, thì tiền nhân công đắt gấp ba lần.

Xong cái hàng rào, tôi mua hai trăm con vịt xiêm, ba trăm con gà, thả vào vườn. Cho chúng mặc sức mà đi lại, chạy nhãy và phá phách khu cỏ chưa trồng trọt. Vịt thì ban đêm nó chui vào gầm nhà tiền chế mà ngủ, tránh sương tránh gió. Cứ đầu hôm, chúng kêu om sòm. Có khi nữa đêm giật mình vì tiếng vịt kêu. Con tôi cho rằng có lẽ vịt nó nằm mơ và la hoảng. Tôi nghĩ là vịt nó núp dưới sàn nhà rất tiện lợi, đở tốn tiền làm chuồng. Nhưng chỉ mới mấy ngày, vợ tôi la các con, hỏi có đứa nào đạp phân gà vịt và mang vào, làm dính thảm nhà hay không, sao có mùi hôi mãi. Tôi giật mình, thì ra vịt nó phóng uế đầy ngập dưới gầm nhà. Thế là tôi phải lái xe đi mua vật liệu, về hì hục đóng chuồng. Đóng một mình thì không được, phải có thợ phụ. Vợ tôi giúp, và con gái đi học về cũng ra phụ. Tôi phải dùng vòi nước, bò vào gầm rất thấp của căn nhà mà rửa cho sạch phân. Vừa chật, vừa hôi, vừa khó chịu, tôi nghĩ mình dại quá, không nghĩ ra sớm cái chuyện vịt phóng uế . Thôi thì phải trả nợ cái tội thiếu nghĩ xa.

Tôi định rào lưới che hầm sàn nhà, thì có nhân viên của thành phố đến, cho tôi biết rằng, theo luật thành phố, thì cái nhà phải mặc quần, nghĩa là che kín phần dưới chân lại, không có quyền ở truồng, vì mùa đông sợ lạnh bụng. Thế là phải đi đặt hàng, mua vật liệu để che kín cái chân nhà lại. Tôi cũng mất cả tuần mới hoàn tất cái quần cho căn nhà. Thức ăn gà vịt, phải qua thành phố bên cạnh mà mua, chất đầy cả chục bao trên xe, chạy về. Cũng chỉ có một mình tôi lăn xuống xe hơi , bỏ lên xe kéo, và mang vào chất trong kho. Nặng nề, mệt lữ và bụi bặm. Không quen lao đông, khi nào tôi cũng thở phì phò, có khi quáng mắt, thấy đom đóm giữa ban ngày.

Phân gà phân vịt tràn đầy cả sân cỏ, cả lối đi, nhão nhẹt và dơ bẩn. Tôi dùng vòi nước xối rửa mỗi ngày. Sau nầy, nhìn biên lai tiền nước, tôi giật mình không dám rửa ráy thường xuyên và xài phí nhiều. Có tháng phải trả cả năm trăm đồng tiền nước, mà chưa bán được đồng nào nông phẩm.

Gà cũng thả rong, vịt cũng thả rong. Nhiều lúc chú gà trống lớn vô tình lãng vãng đi gần đàn vịt mái. Ông vịt xiêm đầu đàn hiểu lầm, phóng đến đánh đuổi chú gà. Thế là có cuộc đọ sức , như hai võ sĩ thượng đài. Chú gà đâu có chịu thua dễ dàng, nhảy lên, cắn vào mồng ông vịt, dùng hai chân đạp thốc vào ngực vịt, có lẽ hai cái cựa nhọn cũng đâm sâu vào địch thủ. Ông vịt dong hai cánh đập tạt vào, mạnh như roi quất. Có khi làm chú gà lộn ngược nằm lăn ra đất. Cuộc chiến kéo dài, tôi và thằng con trai ngồi coi khoái lắm, toét miêng cười, và có khi la hổ trợ cho cuộc chiến . Vợ tôi thì nhãy đỗng lên mà gào:

“Anh không ra mà can chúng ra, để chúng bị thương, có con chết đấy”,

“Con nào chết thì đem nấu cháo ăn” Tôi trả lời.

Ông vịt hạ cái đầu xuông thấp , thẳng ra phía trước như võ sĩ đi xà quyền. Chú gà ngóc đầu lên cao mổ xuống. Ông vịt hất ngược cái đầu lên, thọc mạnh vào dưới hàm con gà, và hai cánh vịt đập vào như trời giáng, chú gà ngã lăn quay. Dứng dậy, bỏ đi mà không chạy trốn, rồi đập cánh bồm bộp, gáy hai tiêng dài, như thổi kèn chiến thắng. Ông vịt chắc cũng thấm đòn, gờm, không dám đuổi theo.

“Sao con gà mà đấu thua con vịt hở Ba?” Thằng con trai tôi hỏi.

“Vì con gà thiếu chính nghĩa. Léng phéng gần đám đàn bà của con vịt. Vã lại, theo luật quyền Anh, đây là một cuộc đọ sức không cân xứng, con vịt nặng gần gấp đôi con gà?..”


...






Back to top
« Last Edit: 03. Mar 2010 , 11:28 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa
Reply #1766 - 03. Mar 2010 , 11:27
 


Truyện đọc của GHH ngày hôm nay

Đi tìm vui thú điền viên
Tràm Cà Mau  - Phần 2


...




   
Tôi trả lời chưa xong, thì thằng con cắt ngang:

“Chính nghĩa là gì Ba?”

Vợ tôi nghe con hỏi, nạt tôi:

“Thôi ba nó ơi. Đừng đầu độc con cái. Thấy gà vịt đánh nhau, đã không can mà còn ngồi xem, tán thưởng. Làm con nó quen với cái ác, hư đầu óc thơ ngây của chúng.”

Đám gà vịt nầy, ăn mạnh và lớn mau, đẻ trứng lung tung đầy vườn. Chúng tôi phải đi nhặt cất vào thùng lớn, mua hộp có ngăn đựng trứng mà chứa. Bây giờ thì phải nghĩ đến cách tiêu thụ trứng nầy. Vợ tôi bàn rằng, mua một cái máy ấp, bán hột gà lộn hai mươi mốt ngày, và bán luôn hột vịt lộn.

Cái máy ấp đem về, mỗi lần ấp được ba trăm trứng. Ấp xong, tôi lựa những cái trứng lớn cho gia đình dùng. Trứng ấp tại nhà, ăn ngon vô cùng,

Nước trong trứng ngọt lịm. Tôi ăn một lúc sáu cái. Đứa con gái tôi rùn vai ghê sợ, không dám ăn. Thằng con trai bắt chước bố, cũng ăn được năm cái, và bị sình bụng suốt đêm nằm rên ư ử. Trứng ngon quá, đem đi bán thì uổng, tôi bàn với nhà tôi, chủ nhật nầy, đem về thành phố tặng cho các bạn bè bà con,mỗi người vài chục hột ăn chơi, hưỡng cái thành quả đầu tiên của nông trại chúng tôi.
Thế là chúng tôi mất thêm một ngày chủ nhật, chạy từ nhà nầy qua nhà kia, chia cái vui của nông trại cho bà con. Ai cũng khen, vồn vả tiếp đón, vì mấy khi có trứng lộn tươi như thế nầy trên đất Mỹ. Chúng tôi ra về, dù đường xa mệt nhọc và tốn xăng, tốn sức, nhưng lòng vui như hoa nở.

Tôi đi ngoại giao, gặp các chủ tiệm bán thực phẩm Á Châu, hứa sẽ cung cấp cho họ rau tươi, bầu bí, gà vịt tươi, trứng lộn, với giá rẻ. Đa số đều vui vẻ, và bảo tôi đem hàng đến cho họ xem, rồi họ sẽ mua. Về sau, trứng ấp được đem bỏ mối cho các chợ , ban đầu thì bán rất khá, nhưng càng lúc, thì càng ế ẩm, vì người ta ăn cho vui, ăn để nhớ hương vị quê nhà, không phải ăn vì ngon, và muốn ăn thường xuyên. Trứng không để lâu được, các tiệm bán không hết trả lui, tôi phải ôm về, còn phải năn nỉ bạn bè để tặng không cho họ. Thế mà có người từ chối, và nói thẳng thừng là không muốn ăn các thứ đó nữa. Đám gà vịt, cũng không bán được bao nhiêu, trong nhà ăn mãi cũng ớn. Đem cho bạn bè thì nhiều. Người thì làm tiết canh vịt,vịt xáo măng, gỏi gà, cháo gà, phở gà. Gà tươi nuôi trong vườn thì ăn ngon. Cho thì họ ăn, nhưng mua thì không mua. Tiền bán gà vịt gom lại, không bằng tiền thực phẩm mua cho chúng ăn trong vài tháng. Ấp trứng thì lỗ vốn lớn, có lẻ tiền bán được chưa đủ tiền điện, tiền xăng, chưa kể công vận chuyển.

Khi nuôi vịt, tôi nghĩ vịt là phải có nước cho chúng tắm, tôi chưa biết vịt có thể ở khô. Tôi thuê xe ủi đất, hì hục đào một cái hồ lớn, cái hồ chứ không phải là ao. Mấy ngày ròng rã. Tôi vật lộn với cái máy ủi đất. Đào, xời hắt lên cao. Khi đào xong cái hồ, thì tôi chợt nhận ra là cái xe ủi đất đang nằm dưới lòng hồ, mà bờ hồ thì cao, dốc đứng, xe không lên được. Tôi phải hì hục đào một đường dốc xiên cho xe đi lên. Thế là vợ tôi có dịp để cười và chế nhạo . Đào hồ xong, thì phải xả nước vào , và hy vọng mùa mưa khỏi phải tốn nước. Cuối tháng đó, đọc cái biên lai tiền nước mà tôi hoa mắt, chóng mặt. Tôi phải dấu cái biên lai tiền nước, không cho vợ biết, vì sợ vợ buồn. Cái ao đã đào lỡ rồi, mỗi ngày nước bốc hơi, phải châm thêm cho đầy. Nghe tiêng nước chảy, mà tôi đau như máu mình đang thất thoát. Bỗng tôi đâm ác cảm với bầy vịt, ăn thì như hạm, phóng uế vung vãi, bán thì khó. Để già thì thịt dai, không ai ăn, và họ có lỡ mua một lần, thì lần sau không dám đụng đến nữa. Vịt già cũng sẽ làm hại uy tín kinh doanh. Làm thịt bỏ tủ lạnh, thì tôi không đủ can đảm đầu tư thêm cái máy làm gà vịt, không đủ vốn, mà từ đó sinh ra nhiều chi phí khác nữa.

Cứ nghĩ ra thêm một cái gì, thì tốn kém thêm tới đó. Có người mách tôi, cứ đem gà vịt ra chợ trời mà bán vào các ngày họp chợ, từ thứ sáu đến chủ nhật. Lại biết thêm nghề bán chợ trời. Bán ở chợ trời thì chịu nắng nôi, nhưng nhiều người mua. Về sau, tôi bán sĩ với giá rẻ cho những người bán lẻ. Như thế thì mau hơn, đở tốn công, đỏ mệt nhọc.

Tôi dựng giàn trồng bầu bí, chưa kịp đi mua gỗ đóng giàn, thì có người mách bảo : “ Hãy mua ống nước bằng nhựa, mua thêm các khúc ống nối thẳng, nối cong, nối chữ T, chữ L. Cứ thế mà ráp vào thành giàn, làm mau như gió. Tội chi mà đóng gìan gỗ cho khổ công mà mau mục ải.” Tôi nghe theo lời thầy bàn, nghe thì có lý lắm, nhưng khi vào thực tế thì gặp không biết bao nhiêu ván đế. Thứ nhất là quá tốn kém, thứ hai là giàn không vững, khi gió thổi thì mấy cái giàn cứ đu đưa nhún nhẫy theo chiều gió. Thế là phải mua thêm ống nước lớn mà chống chỏi, mà đâu phải là dễ chống, vì ống nước nhựa trơn lu, không có nơi tựa, mà đông đinh thì xôc xệch lỏng lẻo. Lại tốn thêm bộn tiền. Phải mua thêm lưới mắt cáo trùm lên cho bầu bí leo. Mỗi ngày, buổi chiều đi học về, con gái tôi ra vườn tưới cây. Bầu bí lớn mau như thổi, chẳng bao lâu dàn cây lá sum sê xanh mướt, ra hoa vàng rực, và những nụ trái nhú ra đẹp như những nậm ngọc. Lũ ong bướm kéo đến nhỡn nhơ . Tôi nhìn mà lòng vui không xiết. Rồi những trái bầu bí dài thòng, nặng chĩu, phải buộc dây treo chúng lên.

Vợ tôi bàn rằng, nên thuê người đổ đất làm một con đường chạy từ ngoài vào đến cuối vườn, để mai đây, khi nông phẩm nhiều, xe vận tải lớn có thể vào chuyên chở thẳng ra chợ. Tôi thấy có lý quá, đi giao thiệp,và giao cho nhà thầu đổ đất, cán đường, làm mương thoát nước hai bên đường. Lại tốn kém thêm ngoài dự trù, nhưng nghĩ lại, mai đây, đở tốn công thuê người khuân vác từ nhà ra đường. Sau nầy, con đường chưa được hân hạnh đón chiếc xe vận tải nào đi qua, vì chúng tôi ước tính thì nhiều, mà thành quả nông nghiệp không gặt hái được bao nhiêu.

Những trái bầu non, nấu canh tôm ngọt nước, ban đầu thì ngon lắm, vợ chồng khen tấm tắc và như ăn canh thay cơm, nhưng ăn mãi thì cũng chán. Bạn bè bà con xa gần cũng hưỡng được thành quả của chúng tôi. Chúng tôi đem bầu bí ra bỏ mối ở các chơ Việt Nam, có bao nhiêu bán được hết bấy nhiêu. Nhưng đó là thời gian đầu mùa, về sau, dù xuống giá rẻ rề, cũng không bán hết, phải mang các thứ trái cây héo về, đổ xuống làm phân xanh. Tôi lại chuyển bầu bí ra chợ trời, bán sĩ cho các gian hàng, người ta trả giá nào cũng phải bán tháo đi. Bạn bè bà con,ăn mãi cũng chán bí chán bầu, không ai muốn nhận các món quà nầy,vì ngoài chợ cũng rẻ rề.

Chúng tôi tính toán sai cả, thì ra cái tưởng tượng khác xa thực tế. Chưa có kinh nghiệm, chưa từng trãi, cứ vẽ vời trong trí tưởng tượng mà đem ra thực hành. Đôi khi tôi có cảm tưởng như vợ tôi là vị bí thư tỉnh ủy, cứ vạch hết kế hoạch nầy, đến kế hoạch kia, mà tôi là nhân dân, chỉ biết thi hành,và sai thì sửa, và càng sửa thì càng sai.

Mùa đông đầu tiên, một buổi sáng thức giấc , dậy đánh răng rửa mặt, mở nước không chảy. Tôi tưởng hãng cung cấp nước tạm thời khóa nước để sửa chửa. Tôi định sẽ kêu điện thoại than phiên vì khóa nước mà không báo trước. Nhưng sau tôi mới biết là thời tiết lạnh, đã làm đông đá nước trong ống. Mấy đứa con tôi không chịu đi học vì chưa đánh răng súc miệng. Tôi cũng chịu thua. Ống nước bị lạnh đông đá, làm nhiều nơi bị vở, khi đá tan, nước chảny lênh láng. Lại phải nhờ mấy ông thợ ông nước đên sửa chửa với tiền công chém rất ngọt. Nhà tiền chế, tường mỏng, mái mỏng, mùa hè thì thiêu đốt như lò lửa, mùa đông thì lạnh căm căm. Tôi lại phải tốn thêm tiền mua hệ thông sưởi, hệ thông điều hòa không khí.

Chỉ một thời gian thôi, tiền tiết kiệm, tiền bán căn nhà, đã đổ hết vào cái nông trại. Thấy cạn tiền đầu tư cho mùa tới,vợ tôi bàn chuyện đi vay ngân hàng, đem cái nông trại nầy ra mà cầm cố. Thôi thì cũng liều - Sống trên xứ nầy không có nợ, thì không phải là người tốt - Một anh bạn tôi bảo vậy. Tôi chở vợ ra ngân hàng làm giấy tờ vay mượn. Chỉ mấy hôm sau, được giấy báo là ngân hàng đã chấp thuận. Chúng tôi hớn hở, cứ còn nước thì còn tát, để cứu vãn cái nông trại nầy. Nhưng khi nhìn vào bản chiết tính chi tiết các phí khoản vay, đủ các thứ chi phí, vay thì ít, mà nợ tốn kém thì nhiều. Vợ tôi nhăn nho, nói tiếng Việt Nam với tôi, trước mặt ông nhân viên cho vay:

“Bọn nầy là tụi ăn cướp ngày, ăn cướp có giấy tờ, ăn cướp có pháp luật che chở. Vay chừng đó, mà chi phí chừng đó, có chết thì thôi, tôi không mượn đâu. Thôi đi về.”

Không mượn được tiền, chúng tôi lo lắng lắm. Thôi thì tạm thời chi tiêu bằng thẻ nhựa, chịu lãi suất cao, cũng còn đở hơn. Tôi thức khuya, dậy sớm chăm nom lũ gà vịt, lũ rau ráng. Có khi đến mười giờ khuya mà vẫn còn vác nặng trên vai những bao thức ăn súc vật, còn xối nước tưới cây. Những lúc nầy, tôi cũng bắt chước vợ mà hổn hển ngâm nga: “ Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người tìm đến chốn lao xao..”, và thấy ông Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm viết sấm ký giỏi quá, dự đoán tương lai cho tôi đúng phóc. Quả không có ai dại bằng mình., tìm đến nơi vắng vẻ nầy mà lao động khổ nhọc, đốt hết tiền tiết kiệm trong bao nhiêu năm.

Một hôm nữa khuya thức giấc, vợ tôi nhẹ nhàng hỏi:

“Anh có nhớ chuyện Tam Quốc Chí không? Khi đánh nhau, họ hay lập thế trận ỷ dốc. Anh có biết thế trận ỷ dốc là thế nào không?”

“Trời ơi, nữa đêm mà nói chuyện Tam Quốc Chí, anh lao động quần quật từ sáng đên khuya, rã người, em để anh ngủ cho có sức để mai còn lao động tiếp.”

Tôi nghe tiếng thở dài não nuột của vợ mà động lòng, trả lời ấm ớ cho vợ khỏi buồn:

“Anh không biết chắc ỷ dốc là cái khỉ khô gì. Nhưng có lẻ họ chia quân đóng hai vị trí khác nhau, một nhóm tác chiến, còn nhóm kia yểm trợ “.

Vợ tôi như bắt được ý, hăng hái nói:

“Em nghĩ, mình cũng nên bắt chước người xưa, lập thế trận ỷ dốc mà cứu vãn cái nông trại nầy. Có nghĩa là anh xin việc đi làm bên ngoài, đem lợi tức về bù đắp, yểm trợ cho khu nông trại của chúng ta. Nếu một năm sau nữa , mà còn không nên cơm cháo gì, thì bán quách, chúng ta đi làm công cho người khác. Nếu thành công, thì anh nghỉ việc bên ngoài, trở về với nông trại.”

Nghe vợ bàn mà tôi tỉnh ngủ. Ừ, giản dị thế mà cũng nghĩ không ra. Cứ lo lắng hoài. Đàn bà cũng có nhiều cái suy nghĩ thật hay. Tôi nhẹ nhàng hỏi vợ:

“Nhưng một mình em, có kham hết công việc trong nông trại nầy chăng? Việc thì bề bộn, nặng nhọc, làm hoài không hết”

“Những việc thường thường, thì em có thể làm được, những việc nặng nhọc, thì chờ anh đi làm về giúp”

Tôi nghe mà ngao ngán. Thế nầy là vui thú điền viên trong tuổi xế chiều chăng. Ngày đi làm toàn thời gian, đêm về làm việc nặng. Nhưng có lẽ không còn giải pháp nào tốt hơn. Rán thêm vài năm nữa, may ra thời vận đến.

Nhờ có chuyên môn, tôi xin được việc làm có đồng lương khá. Mỗi tháng đem tiền lương về nuôi lũ gà vịt, lũ rau ráng bí bầu. Công ty tôi làm đang đến đến hồi phát triển mạnh, mỗi ngày tôi làm việc từ mười đến mười hai giờ, mỗi tuần làm sáu ngày. Mịt mờ trời đất, thế mà đêm về cũng phải lo thêm việc của nông trại nữa. Vợ tôi thỉnh thoảng phải thuê người phụ làm trong vườn. Lương tôi cũng tạm thời đáp đổi chi phí của nông trại. Ngày chủ Nhật tôi phải lái xe đưa nông phẩm ra chợ bán. Nghĩa là không có một ngày nghỉ nào trong tuần.

Thỉnh thoảng nghe vợ tôi than phiền về chồn cáo bắt mất một số gà vịt, tôi chỉ cười bảo:

“Chia cho chúng tha bớt, mất càng nhiều, thì em càng đở mệt.”

Chồn cáo xứ nầy khôn ngoan lắm, chúng biết con chó săn trong nhà đêm đêm đi tuần rảo quanh hàng rào, rồi vào nằm nghe ngóng canh chừng. Chúng lập kế đánh du kích , để vài ba con kêu chí chóe xa xa về hướng đông, con chó chạy về hướng đó mà sục sạo. Thừa thế, chúng lẻn vào hướng tây mà bắt gà vịt lôi đi. Khi lũ gà vịt kêu lên thất thanh, con chó quay lại, thì chồn cáo đã đem theo được chiến lợi phẩm mà cao chạy xa bay, ra khỏi vòng rào.

Mấy hôm, thấy lũ vịt không xuống hồ bơi lội mà đứng trên bờ ngơ ngác, lông lá tả tơi. Tôi ra xem, thấy mặt hồ đóng váng, như có ai đổ dầu, và quanh bờ thì có những vờ bọt đen đặc quánh. Tôi vớt bọt, dùng cây mà quậy, thì thấy như có chất dầu. Đem đốt thì cháy ra khói đen đặc và hôi mùi dầu. Tôi tái mặt, và nhảy cẫng lên mà chạy mau vào nhà la lớn:

“Em ơi, mình sắp thành tỷ phú rồi em à. Dưới đất của mình có vàng đen. Dầu, dầu hỏa, mình sắp thành phó vương dầu hỏa rồi. Thôi, dẹp hết, bỏ hết, chẵng có bí bầu gà vịt chi nữa. Bỏ ra công sức thì nhiều, mà thu hoạch chăng bao nhiêu. Bỏ ra cả trăm ngàn bạc mà thu lại chưa được vài ngàn. Trời thương chúng mình, trời đãi chúng mình.”

Vợ tôi chưa tin, tôi ra hồ nước, vớt dầu vào làm thí nghiệm chứng minh. Vợ tôi thấy dầu cháy, ôm lấy tôi hôn mà kể công, rằng đó là nhờ nàng đưa ý kiến làm nông trại, mà nay thành tỉ phú. Cả tuần, chúng tôi bỏ không tưới cây, gà vịt thì cho ăn cầm chừng. Kêu bạn bè đến, bảo muốn bắt bao nhiêu thì bắt. Giàu rồi, thì kể chi mấy con gà, con vịt lẻ tẻ. Nhiều đêm hai vợ chông tôi nằm mơ chuyện sang giàu, gởi con qua Anh Quốc cho học trường lớn nhất., chuyện ngao du khắp thế giới . Tôi chạy ngược chạy xuôi tìm hãng khai thac dầu. Và niềm vui của tôi xẹp xuống, khi nghe người ta nói về việc khai thác dầu. Hãng dầu còn xem trử lượng được bao nhiêu, có đáng khai thác hay không, và khi biết mõ dầu có trữ lượng cao, thì họ chỉ thuê một khu đất nhỏ,với giá rẻ mạt, không đáng vào đâu. Thế là giấc mơ tỷ phú của chúng tôi xẹp xuống thảm hại.

Việc trồng trọt và nuôi gà vịt quá nhọc nhằn, chúng tôi không kham nỗi, vợ tôi bàn chương trình nuôi dê, bò. Chúng tôi bán tháo hết đám gà vịt, mua hai mươi lăm con dê cái, có con đã chửa bụng lưng lửng, và một anh dê đực râu xồm, có hai cái sừng quăn lại, xỉa ra đàng trước. Mua thêm bốn con bò, ba con cái, một con đực. Bọn dê tạp ăn, lá gì cũng bứt và nhai nuốt, thật là dễ nuôi. Thả chúng long rong trong vườn. Cách nuôi thật nhàn hạ, không cần chăm sóc chi nhiều. Bốn con bò cũng vậy. Mỗi ngày, con dê đực làm tình với bọn dê cái liên miên, làm vợ tôi ngượng. Con chó, cũng to lớn không thua gì con dê, nhưng sống độc thân, mỗi lần thấy con dê đực nhãy cái, thì nó ghen, chồm lên mà sủa om sòm. Có khi nó nhãy lên, tấn công sau mông con dê đực. Con dê dực tức giận vì kẽ phá đám, quay lại, dùng sừng ủi đại vào cho chó. Có khi con chó tránh đòn không kịp. Cũng lăn kềnh ra . Vợ tôi đứng la lớn, bảo tôi can chúng ra. Sợ con chó bị thương vì cái sừng nhọn của dê. Tôi cũng nạt nộ, la hét mà hai bên không ngưng chiến. Tôi phải dùng cây roi da, vụt túi bụi vào cả dê lần chó, chúng mới chịu dang ra.. Vợï tôi nói:

“Con dê nầy hung tợn quá, có ngày con chó bị sừng dê đâm đổ ruột”
Tôi cười:

“Lỗi tại con chó. Trời đánh còn tránh bữa ăn. Huống chi nó đang làm cái việc truyền giống thiêng liêng, mà con chó nhãy vào phá đám. Ví như tụi mình đang vui vẻ, có đứa nào phá đám, mình có nỗi điên lên không.”

“Thôi ông ơi, ăn nói đàng hoàng một chút có được không?”- Vợ tôi cằn nhằn.

“Mà con chó nó ghen tức cũng phải, nó thì chay tịnh, mà con dê thì cứ làm tình lia lịa, không ngứa mắt sao được?”

Mấy con dê cái bắt đầu sinh con, những con dê con như cục nhung mềm, môi đỏ hồng, hai mắt long lanh, dáng đi yếu đuối. Mấy đứa con tôi cưng chúng lắm. Cứ ẵm bồng hoài. đi học về là ra vườn ẵm dê con vuốt ve.

Chị tôi từ Úc Châu qua Mỹ thăm, anh chị thấy tôi ở giữa đồng không mông quạnh gió hú vi vu mà ái ngại. Cứ lắc đầu mãi. Cứ nói mãi câu:

“Cậu mợ tính như thế nầy là trật lất rồi. Mình đã xa quê hương, thiếu tình đông bào, phải sống nơi nào phồn hoa đô hội, cho bớt nỗi cô đơn. Lại gần chợ búa, gần bệnh viện, gần các tiện ích công cọng, có bạn bè, có bà con láng giềng, khi đau ốm, khi trái gió trở trời có nhau. Lại khi muốn ăn tiệm Việt Nam cũng phải lái xe đi về hơn hai giờ , phí công quá. Phải tính lại đi.”

Một buổi sáng sớm, cả nhà ngồi uống cà phê nhìn qua cửa sổ, thấy con dê đực đứng trước cửa chuồng, chổng râu dê lên đón bọn dê cái. Mỗi khi có con dê cái đi ngang qua, thì dê đực nhãy lên lưng làm tình. Liên tiếp mười mấy lần, mà thấy chàng dê vẫn tỉnh táo như thường. Chị tôi phát mạnh vào vai anh rể tôi cười mà nói:

“Ba mầy chẳng bằng một phần nào của con dê cả.”

Anh rễ tôi bình tỉnh nói:

“Em xem, con dê đực thay đổi nhiều con dê cái khác nhau, chứ nếu chỉ có một con dê cái thôi, thì nó cũng chỉ làm một lần, chứ không làm đến lần thứ hai. Nếu có hai chục bà khác nhau, thì anh đâu có thua anh dê kia chút nào.”

Trưa hôm ấy, một người bạn cũ của anh rễ tôi ghé nhà thăm, thấy bầy dê và nghe kể lại chuyện tiếu lâm buổi sáng, mắt anh sáng lên, rũ chúng tôi đi đến tiệm bán thịt dê của người Ấn Độ nằm về phía Bắc của thành phố. Đi mua thịt dê về nhậu chơi, tăng cường sức khỏe mà bổ dương. Mấy bà ở nhà, chúng tôi ba người đàn ông lái xe đi. Tiệm rộng lớn, có hai căn, như một căn chợ. Nồng nặc mùi cà ri, muì hương vị. Đủ loại cà ri, đủ loại hương vị trong bao ni lông, chất đầy trên kệ. Bên kia thì dê dã lột da treo lòng thòng nhiều con trần truồng. Khách hàng muốn mua cẳng, đùi, ngực, thì cứ việc chỉ vào đó. Anh Ấn Độ đầu quấn khăn chà chóp đem cưa dến, cắt ào ào gọn nhẹ lắm. Chúng tôi mua nguyên cái đùi sau con dê, hơn mười cân Anh. Anh rễ tôi thấy nhiều cặp ngọc dương ( dái dê) tròn trỉnh, trắng tươi, gói trong giấy bóng rất bắt mắt, xuýt xoa, đòi mua đến năm cặp. Tôi hỏi ai mà ăn hết, anh bảo không ai ăn thì để cho anh. Mấy khi mà có thứ quý báu nầy trên miền đất văn minh. Anh thì thầm: “ Ăn thứ nầy vào, thì phải biết. Không có hiệu quả sao có ghi trong sách thuốc người Tàu?”

Chúng tôi mua thêm một ít hương liệu, rồi hớn hở chạy xe về. Ông bạn anh rễ tôi dành làm bếp, nấu các món đặc biệt, mà ông nói đùa là món “ Ông ăn bà khen”. Ông bạn đem ướp ngọc dương rồi xào với hành tây, đem ra nhậu trước. Mấy bà biết đó là cái gì, thì cứ la oai oái ngoãnh mặt đi. Mười viên xào tròn trịa nằm trên dĩa, có hành xắt lát, có tiêu rắc lấm chấm đen. Trông thật ngon. Tôi bắt chước ông anh, gắp một viên đưa vào miệng, mới cắn sơ, đã có mùi thum thủm, tôi muốn nhả ra. Trong lúc ông bạn của anh tôi thì gắp bỏ vào mồm, nhai nuốt ực ngon lành, còn hít hà khen ngon. Ông anh rễ tôi cũng thưởng thức tận tình và nói:

“Bổ lắm đấy nhé. Cứ ăn vào là nghe máu chuyển rần rật , mặc sức mà rượt các bà chạy có cờ. Người Ấn Dộ và Trung Hoa biết món ăn nầy nên đông con là phải.”

“Nếu có thêm rượu thuốc toa Minh Mạng nữa, nhấp vào, thì là một phối hợp hết sẩy” - Bạn ông anh tôi tiếp lời – “Hồi còn ở bên nhà, tôi thấy mấy ông già trộn huyết dê với rượu, uống vào thì như thần dược.”

Thịt dê được nấu càri, thêm nhiều hương vị khác, nước cà ri vàng màu đỏ sền sệt, chấm với bánh mì mà ăn . Bà chị tôi nói:

“Vẫn còn mùi mồ hôi dê. Nghe đâu khi làm dê, để thịt khỏi hôi, người ta cho dê uống nước, rồi cột dây, đánh nó chạy quanh một cái cọc, cho vả mồ hôi ra. Xong xối nước tắm cho nó. Bao nhiêu mùi hôi đều ra hết.”

Vợ tôi xemn vào:

“Ở Mỹ mà làm thế là đi tù sớm, vì mang tội hành hạ súc vật. Ngon đâu không thấy, đi tù mệt lắm”

Mấy hôm sau, có con dê cái trong vườn bị thương tích, ông bạn của anh tôi đề nghị làm dê thui mời bạn bè ăn chơi. Ông nhận trách nhiệm thọc thuyết và lột da dê. Cái chậu đựng rượu Vodka được chôn lưng chừng xuống mặt đất, ông thọc dao vào cổ dê mà ngoáy. Máu dê tuôn ra kêu ọc ọc. Các bà khiếp sợ la lên và bỏ chạy cả. Mổ bụng ra, mối biết con dê có chửa. Cái tử cung chứa bốn con dê con đã tượng hình. Ông bạn anh tôi xuýt xoa, bảo rằng thứ nầy quý lắm, để ông làm dê “ hà nàm” cho mà ăn. Cái bọc tử cung để nguyên, dổ vào nồi, đặt lên bếp hầm với nhiều vị thuốc bắc. Khi chí đem xuống, vớt ra dĩa, dùng dao mà cắt từng khoanh, thịt dê con mềm nhũn, nuốt vào cổ như ăn đông sương. Con dê được xuyên qua cây cọc, quay trên đống lửa than đá.

Tôi điện thoại mời đám bạn bè xa gần đến tham dự buổi tiệc thịt dê. Nghe có tiết canh dê, dê thui, dê “ hà nàm”, ông nào cũng hớn hở, đòi mời thêm các bạn bè khác nữa.

Đám đàn ông ăn uống nhồm nhoàm, miệng môi đầy máu tiết canh, nói chuyện tiếu lâm bao quanh vấn đề tình dục, không kiêng cử gì cả, và cười ha hả, làm nhiều bà nhăn mặt bất bình.

Buổi tiệc thịt dê thật vui, anh em ra về hỉ hả, và hẹn có ngày trở lại làm một chầu khác. Tối hôm đó, tôi nằm chờ kết quả của dê “ hà nàm” và tiết canh dê, nhưng không thấy gì cả, và ngủ quên cho đến sáng. Vợ tôi nhìn tôi cười hỏi:

“Có thật thịt dê làm tăng cường năng lực sinh lý không?”

“Toàn cả chuyện tào lao, tiếu lâm chơi thôi, đàn ông ưa ăn tục nói phét, bịa chuyện cho vui bữa rượu ấy mà”

Bọn dê sinh sản nhanh, mau lớn, và ăn tạp, phá trơ trụi cả khu vườn. Chúng biết đứng lên trên hai chân sau, mà bứt lá những cành cao. Làm cho khu nông trại tiêu điều trông trải. Mỗi chủ nhật, tôi đẩy dê lên xe, đem ra bán ở chợ trời. Thấy mình giống mấy anh nông dân Âu Châu tả trong tiểu thuyết của Pháp, mà ngày xưa thường hay dọc.. Đem dê bán cũng không phải là chuyện giản dị, đứng chờ, trả giá, cò cưa. Loại người như tôi không thích hợp với công việc thương mãi, nên cảm thấy chán lắm.

Một lần đứng bán dê, có cô thư ký trong sở đi chợ trời, thấy tôi, nhãy đến ôm chầm như gặp cố nhân - Mà ngày nào không gặp nhau chứ - Cô cười nói huyên thuyên và ôm hôn mấy con dê như người Mỹ thường hôn chó. Thấy cô thích quá, và hỏi chuyên dê tíu tít, tôi cho cô một con. Lấy cái áo cũ bao mông nó lại, đẩy lên băng sau chiếc xe hơi sang trọng của cô thư ký. Con dê phá tan cả vườn hoa của nhà cô và hai vợ chông gây nhau, suýt li dị. Cô dem con dê trả lại cho tôi ngay tại sở. Tôi lại phải khổ sở kiếm vải bọc mông con dê, cho lên băng sau chiếc xe mình, chở về. Vợ tôi thấy con dê la lên:

“Dê bán không hết, anh mua thêm về làm chi ?”

Vợ tôi nhọc nhằn vì cái nông trại quá, bàn với tôi bán đi, về lại thành phố ở. Phải gần nữa năm mới bán được đám đất nông trại. Bán lỗ vốn, vì chúng tôi muốn phủi tay cho xong. Căn nhà tiền chế, người mua đất đòi chúng tôi trả thêm tiền họ mới nhận. Còn không thì phải dẹp đi. Chúng tôi năn nỉ mãi, họ mới nhận với điều kiện tất cả trang bị về máy sưỡi, máy lạnh, điên nước để nguyên. Vợ tôi nói:

“Ai đời cho không căn nhà mà phải năn nỉ người ta. Lại còn đòi hỏi đủ điều.”

Chúng tôi thở phào, thoát ra được cái “ vui thú điền viên “ nhọc nhằn đó, dọn về phố, thuê nhà ở. Dù còn nợ nần nhiều, nhưng chúng tôi cảm thấy như trút được gánh nặng ngàn cân trong lòng. Hai vợ chồng đi làm công , chiều về ngồi xem truyền hình, đọc sách đọc báo. Buổi tối ngủ thẳng giấc không lo lũ chồn cáo du kích tấn công. Ngày nghỉ rủ nhau đi chơi, đi phố, thăm bạn bè bà con. Thảnh thơi không lo lắng nhiều. Suốt ba năm làm nông trại, tôi chỉ có được một lần vui toàn vẹn, là lần mời bạn bè cùng ăn thịt dê. Tôi chưa có một lúc rảnh rang để ngững đầu lên trời nhìn trăng, chứ khoan nói là khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.

Tôi bảo với vợ rằng:

“Mấy ông thi sĩ, văn sĩ, cứ vẽ vời ra cảnh thơ mộng để gạt gẫm tụi mình.. Tiêu phí sạch cả tiền bán căn nhà, tiền tiết kiệm, mà lại ngày đêm đầu tắt mặt tối trong mấy năm . May mà thoát ra được. Sướng quá. Thôi nhé, từ nay em đừng vẽ vời thêm chuyện thơ mộng nữa nhé.”

Vợ tôi cười:

“Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có nói rồi: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ”. Lỗi tại mình, không chịu hiểu nghĩa đen mà cứ hiểu nghĩa bóng. Nên mới ra nông nỗi.”

Tràm Cà Mau
(Viết tặng anh chị NDK,THQ)

...






Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1767 - 03. Mar 2010 , 19:33
 





Hạnh Phúc Đầu Xuân

Trình bày : Cẩm Ly


Xin bấm vào hình


...


Nhạc phẩm #491

Thấm thoắt là đây, 1 mùa xuân mới với ngàn cánh mai vàng
Nụ cười trên môi, trên làn má ai đón xuân tươi vừa sang
Biết chúc chi đây khi làn gió xuân về
Giấy trắng ghi lại đôi dòng nhạc tâm tư
làm thơ trao duyên,
gửi người đôi câu chúc nhau vào lúc đầu xuân

Xuân nay tôi chúc
người miền biên cương muôn ngàn câu mến thưong
Mong xuân yên lành trong bao hương tình,
để người người thêm vui cuộc sống thanh bình

Xuân nay tôi chúc,
người người nơi nơi cho bền duyên lứa đôi
Như xuân hoa đời, tay trong tay rồi
dựng xây ngày hôm nay cho ngày mai thắm tươi

Chúc tiếp rằng em,
dù đường xa cách nhưng mà chớ xa lòng
Người về thương nhau,
tâm tình luyến trao ước mong sao dài lâu.
Nhớ nhớ hôm nào ước hẹn lúc ban đầu
mãi mãi ta là đôi bạn lòng bên nhau

Mình về mai sau,
xin đừng quên câu chúc nhau hạnh phúc đầu xuân.

thanks.gif



Back to top
 

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Mytat
Gold Member
*****
Offline


Peace - Love - Happiness

Posts: 5276
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa - KHSG Group
Reply #1768 - 03. Mar 2010 , 19:45
 





Tình Xanh

Trình bày : Thanh Hà


Xin bấm vào hình


...


Nhạc phẩm #492

Mới hôm qua còn đây dấu vết tình xanh,
Nhớ anh thôi và đôi mắt ấy trìu mến.
Mới hôm qua mà đã yêu nhau,
Nói với em lời luyến lưu ban đầu.
Đến với anh và cho anh những nụ hôn,
Hé môi cười để cho anh thấy tình vui.
Nói với anh lời thiết tha hơn,
Giữ cho nhau tình thắm xanh muôn đời.

Này anh yêu hỡi, xin đừng quên nhau nhé.
Dù trong giây phút cũng làm tình hon héo,
Này anh hỡi đừng để tinh chóng phai tàn.
Dù anh đi mãi ra khỏi cuộc đời tôi,
Tình tôi vẫn thắm xanh màu ân ái cũ,
Không tiếc nuối vì mình còn rất yêu người.

Mới hôm nao tình xanh nay đã là mơ,
Nói yêu nhau để tình ta thêm nồng ấm.
Nhớ nhé anh dù sẽ chia ly,
Giữ trong tim lời nói yêu ban đầu...

(Tình nếu xa rồi, lòng vẫn còn xanh
Dù đời ngăn cách tình vẫn còn xanh.)


thanks.gif



Back to top
« Last Edit: 03. Mar 2010 , 19:46 by Mytat »  

Friendship is a rainbow between 2 hearts sharing 7 colors: hoahong.gif Secret hoahong.gif Truth hoahong.gifSadness hoahong.gifFaith hoahong.gif Happiness hoahong.gifRespect hoahong.gif Love hoahong.gif
 
IP Logged
 
Phuong_Tran
Gold Member
*****
Offline


Thành Viên Hoạt Động
Tích Cực *Năm 2011*

Posts: 10576
Gender: female
Re: Gánh Hàng Hoa
Reply #1769 - 03. Mar 2010 , 20:24
 
Hello Chị T My

Em dìa thăm nhà , em đi ta bà khắp nơi giờ mệt uqa1 dìa đây mắc võng nằm đòng đưa đọc truyện vui thú điền viên....

Em có chôm miếng bánh tét lá cẩm bên TCV Trúc để nhâm nhi , chị ăn hông? Em chôm tiếp...  Grin Grin Grin

PTr
Back to top
« Last Edit: 03. Mar 2010 , 20:24 by Phuong_Tran »  
 
IP Logged
 
Pages: 1 ... 116 117 118 119 120 ... 173
Send Topic In ra