Ai Huu Trung Hoc Le Van Duyet
Trường Trung Học Lê Văn Duyệt - Những mẫu truyện ngắn  
  Chào Du Khách. Xin Gia nhập hay Ghi Danh
 

...



Nếu có trở ngại kỹ thuật khi ghi danh vào diễn dàn, xin liên lạc ngdangmy@gmail.com


  Kho Hình Trang chánhTrợ giúp Tìm kiếmGia nhậpGhi Danh  
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra
Những mẫu truyện ngắn (Read 6053 times)
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Những mẫu truyện ngắn
07. Mar 2014 , 19:05
 
Mục Lục

1. Nội                                            Tác Giả: Tiểu Tử
2. Những Cánh Mai Trong Tách Trà  Tác Giả: Trần Mộng Tú
3. Chiếc ví màu đỏ---                      Tác giả: Louise Moeri-Thục Hân (Dịch)
4. Những Nốt Nhạc Xưa                  Tác giả: Lê Phú Hải
5. Tô Mì Của Người Lạ
6. Chuyện Thằng Bé Tỵ Nạn Bất Đắc Dĩ - Tác Giả:ThaiNC
7. Tô Canh Thơm của Mạ                       Tác Giả: ThaiNC
8. Tường Vi Cánh Mỏng                          Tác Giả: Đoàn thị Hồng Thuỷ
9. My Little Cô Gái Đồ Long                    Tác Giả: ThaiNC
10. Mẹ,và nồi bánh chưng tết                 Tác Giả: Đức Hùng - Lê Khánh Long
11. Bà Nội                                             Tác Giả: Nguyễn thị Thanh Dương
12. Hạnh Phúc Xót xa                            Tác Giả: Phạm Tín An Ninh
13. Chiếc Dù của Mẹ                              Tác Giả:  Chiêu Hoàng
14. Chàng Họa Sĩ Và Dòng Sông             Tác Giả: ThaiNC
15.  Nỗi buồn ngây ngất                          Tác Giả: Anh Thư
16. Nhớ Mẹ                                            Tác Giả: Nguyên Nhung
17. Galang một thời một đời                  Tác Giả: Nguyễn Mạnh Trinh
18. Tiếng Đàn Piano Nửa Đêm                Tác Giả:Nguyễn Đại Hoàng
19. Ba Dòng Nước Mắt                           Tác Giả: Phạm Tín An Ninh
20. Mưa Như Thấm Đất                          Tác Giả: Trần Mộng Tú
21. Người cha quý kính.                          Tác Giả:  Nguyễn Lâm Kim Oanh
22. Cánh Chim Cuối Trời                         Tác Giả: Trần Quang Thiệu
23. Hoa Đào Năm Ấy                             Tác Giả: Tống Minh Long Quân
24. Mẹ Mày Có Khỏe Không?                  Tác Giả: Nguyễn Thị Thêm
25. Chiếc Lồng Đèn của Ba                     Tác Giả:Hồ Hoàng Hạ
26. Những Đứa Con của Má                   Tác Giả: Song Nhi
27. Người Xưa                                       Tác Giả: Nhã Ca
28. Kiếp Tù                                            Tác Giả: Duy Xuyên
29. Sài Gòn và Tuổi Thơ của Tôi             Tác Giả: Trần Mộng Tú
30. Tháng Tư Đen-Chiếc Xích Lô Chở Mùa Xuân   Tác Giả:Thanh Thương Hoàng
31. Anh Trai Biên Hoà Người Em Cà Mau              Tác Giả: Nguyễn Hữu Hạnh
32. Người Tình của Cha                                       Tác Giả: Tuyết Anh
33. Giấc Mơ và Tỉnh Thức                                    Tác Giả : Xuân Phong
Back to top
« Last Edit: 19. Mar 2019 , 18:30 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truện ngắn
Reply #1 - 07. Mar 2014 , 19:20
 
Nội


   
Nội xuống kìa!
- Nội xuống! Ê! Nội xuống!
- Nội xuống!
Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.
Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im lặng.Tôi hiểu: bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa lớn sẽ vượt biên? Sáng sớm mai là đi rồi …
Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ:
- Không sao đâu. Để anh lựa lúc nói chuyện đó với má.
Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói, hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chúng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà… Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm-nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng… Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng «trưởng ban hậu cần» hoặc chị «nuôi» và lâu lâu hay trông có bà nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như nhau: «Nội mạnh hả Nội? Nội có đem gì xuống ăn không Nội?» Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn thôi!
Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay cặp-kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và thường nói: «Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyện thôi!» Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại, bà nó cho đó là một thi vị của tuổi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.
Tôi hỏi má tôi:
- Sao bữa nay xuống trưa vậy nội?
Vợ chồng tôi hay gọi má tôi bằng «nội» như các con. Nói theo tụi nó, riết rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng «má» nhưng sao vẫn không nghe đầm-ấm nồng-nàn bằng tiếng «nội» của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra «ông nội» hay «bà nội». Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng «nội» ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.
Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời:
- Thôi đi mầy ơi!… Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch! Tao lên xe hồi sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu!
Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng:
- Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mở nước Ai đó nghĩ coi! Nội tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng biết
- Ủa? Rồi làm sao nội đi được? Bộ tụi nó giữ lại lon mỡ hả nội? Con gái lớn tôi chen vào.
- Dễ hôn! Nội đâu có để cho tụi nó «ăn» lon mỡ, con! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.
Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe:
- Cái rồi … cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.
Nghe đến đây, bầy con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội tụi nó kể những chuyện «gan cùng mình» của bà nội hồi xưa khi cùng chồng vào khu kháng chiến, nhứt là giai đoạn trở về hoạt động ngầm ở thành phố sau này, trước hiệp định Genève…
Con út nóng nảy giục:
- Rồi sao nữa nội?
- Cái rồi… lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ… cở đứng bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi: «Ũa? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy?» Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giáo Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa trờ rồi… Ti! Kiếm cây quạt cho nội, con!
Ti là tên con út. Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nó bớt cong. Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói: «Nội thấy ba má tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu vậy chớ nó lâu rách.»
Con út cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói : tối nay nó có «bạn» ngủ chung để kể chuyện! Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng mấy đứa con gái, từ trong đó hỏi vọng ra:
- Nội ăn gì chưa nội?
- Khỏi lo! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.
Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau. Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng dào dạc. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng có gì thay đổi. Vẫn loại quần vải đen lưng rút, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt do má tôi tự cắt may: miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa: «Cha… bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội?» Má tôi cười: «Ậy! Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây.» Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây!
Tôi là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu, quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích - dạo đó, Việt cộng hay bắn hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm – má tôi thường chắc lưỡi nói: «Thiệt… không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo.» Cái «xứ» Sàigòn, đối với má tôi, nó «tù chân tù tay» lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốt xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần. Các anh chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó, má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì xuống chơi với chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là «đi đổi gió»!
Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang «cái gì để ăn» cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư «bật hai trên sáu», tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt-ca cắt-củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm cơm đút cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu! Thật là một «cuộc đổi đời» (Việt Cộng thường rêu rao: «Cách mạng là một cuộc đổi đời»). Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước!
Lắm khi tôi tự hỏi: «Rồi sẽ đi đến đâu?» Bấy giờ tôi đã trở thành «trưởng ban văn nghệ» của cơ quan, một lối đi «ngang» mà nhờ đó tôi còn được ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không «đạt yêu cầu». Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn «nghiệp dư» của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt!
Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo. Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắt là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, «vượt biên» là đi vào miền vô định…
Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó. Tôi thắc mắc hỏi: «Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội?» Bạn tôi cười: «Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa?»
Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi sẽ liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì «sự đã rồi»…
Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không được .Đành phải nói cho má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây? Và nói làm sao đây? Liệu má tôi có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không giữ tròn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con? Liệu má tôi… liệu má tôi… Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời…
Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít khoai lang, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải «tăng gia» cho đúng «đường lối của nhà nước». Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có… trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi «nhét kẻ răng»! Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen: «Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng gia khá nhất khu phố đấy! Các cháu tha hồ mà ăn». Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn «tăng gia», họ đã phải đào cả sân xi-măng hoặc sân lót gạch, thì lấy gì để «làm tốt»?
Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách. Tôi tự hỏi: «Lạ quá! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy được?» Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái núm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại:
- Đừng! Nhột!Thằng chơi dại mậy!
Rồi má tôi cười văng cốt trầu. Con Ti la lên:
- Má ơi! Coi ba măn vú nội nè!
Tôi cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba lên năm…Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc! Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở đi, có thể tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bất chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay…
Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói: «Canh chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon». Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành… Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tộ cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỡi vì trong cá kho có tóp mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là «để cho nó dằn» ! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào đó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà…
Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt. Nội hỏi:
- Bộ cay hả?
Vợ tôi “dạ”, tiếng “dạ” nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà sau. Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vầy nữa. Gia đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi sẽ sống hay chết? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng… để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con, ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây phút cuối cùng lưỡi đã cứng đơ mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối những người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động được!
Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái:
- Nè! Ngon lắm! Ăn đi! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn!
Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như: “Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con! Ăn cho ngon đi con!” Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao nhiêu lâu nay… Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc!
Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên:
- Ủa? Mày cũng bị cay nữa sao?
Rồi bà chồm tới nhìn vào tộ cá. Các con tôi nhao nhao lên:
- Đâu có cay, nội.
- Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai?
- Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.
- Con ăn được mà nội. Có cay đâu?
Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt!
Tôi đặt chuyện, nói tránh đi:
- Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.
Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạng sỏi, nuốt không trôi…
Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi hay không? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội… Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng ngủ, trải chiếu dưới gạch-từ lâu rồi, vợ chồng tôi không còn giường tủ gì hết- rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên tráng mà thở dài…
Thời gian đi qua… Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ được vẽ những lằn ngang song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài phòng khách, để trằn trọc suốt đêm chờ sáng.
Bỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ:
- Ba con Ti ngủ chưa vậy?
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe:
- Dạ chưa, má.
Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói:
- Coi bộ nực hả mậy?
- Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.
Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc. Tay má tôi vẫn quạt đều. Rồi má tôi hỏi:
- Tụi bây còn gì để bán nữa hông?
- Dạ…
Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ và bộ xa-long mây “sứt căm gãy gọng”. Ngoài ra, trên tường có chân dung “Bác Hồ” dệt bằng lụa và nhiều “bằng khen”, “bằng lao động tiên tiến”… những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi: “Ba tự hào đã giữ tròn liêm sỉ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chẳng có ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá!” Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề “Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ.” Thật là khùng nhưng cũng thật là chua chát!
Nghe tôi “dạ” rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói:
- Rồi mầy phải tính làm sao chớ chẳng lẽ cứ như vầy hoài à? Tao thấy bầy tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.
Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định:
- Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt cũng theo ông theo bà. Mày đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mày hiểu hôn?
Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống với ít nhiều hy vọng! Thật là ngược đời: có người mẹ nào lại muốn xa con? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới xảy ra những chuyện “đổi đời” như vậy!
Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ:
- Má à! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt biên.
Tôi nghe tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi yên lặng. Một lúc lâu sau, má tôi mới nói:
- Vậy hà…
Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang trong cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói:
- Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó …
Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi nhỏ má tôi dỗ về tôi để tôi nín khóc.
Một lúc sau, má tôi nói:
- Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.
Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại. Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà nội mấy đứa nhỏ đang cầu nguyện ngoài đó.
Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng…
Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân bình. Thật là mầu nhiệm!
Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi. Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.
Tôi chỉ nói có mấy tiếng:
- Con đi nghe má!
Rồi bước ra khỏi cổng.
-oOo-
Lần đó, tôi đi thoát.
Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.
Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện “bên nhà” cho tôi nghe, hết chuyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.
Tụi nó kể:
“Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa. Nói rồi, nội khóc thật mùi-mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi từ đó không thấy trở lại nữa.”
Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục: “Nội hay thiệt!”
Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. “Ba con Ti đi không biết sống hay chết” vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của má tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt…
“Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi con. Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nội mới chịu theo ông theo bà!”
Tôi biết: má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu… Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng sống thêm vài ba năm nữa! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết ! Má ơi! Con biết: cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non…
Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội. Tụi nó nói: “Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng xóm!”
“Mấy hôm sau, bỗng có công-an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ, trong này nội niệm Phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc…”
Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.
“Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất.” Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi:
- Bà cụ đừng có lo! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên chí!” Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con nghe, rồi nói: “Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nội muốn xỉu luôn! Không phải vì cảm động mà vì sợ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn!”
Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt -hay đúng ra để vĩnh biệt- tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.
Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê-dại, không biết thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại với đầy chua xót…
Mấy con tôi nói: ”Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện.”
-oOo-
Tôi làm việc ở Côte d'Ivoire ( Phi Châu ), cách xa vợ con bằng một lục địa, và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào… những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được dỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con… Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.
Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả…

Tiểu Tử
ST
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #2 - 07. Mar 2014 , 19:30
 
Những Cánh Mai Trong Tách Trà


   
Hà có cái thú thích tìm vào những tiệm bán đồ cũ. Đi tới một thành phố lạ, bao giờ Hà cũng liếc nhìn bên đường xem có tiệm nào kẻ cái bảng Antiques Store là nàng phải tìm thời giờ ghé vào.
Nàng thích chạm tay vào những cái chén trà, cái nón vải, cái áo len, cái dây đeo cổ, cái khung hình hay bất cứ một cái gì trong tiệm bán đồ cũ. Đối với Hà mỗi vật thể đó nó cất giấu cả một linh hồn thiêng liêng và bí mật.
Đôi khi cái mùi quần áo đã chạm vào da thịt lâu năm treo trong tiệm, làm nàng bị dị ứng, nhưng Hà cố bỏ nó sang một bên để chỉ nghĩ và tưởng tượng đến những hình hài đã khoác nó lên người. Cũng may, phần đông những tiệm đồ cổ của tư nhân ở những thành phố nhỏ nơi Hà đi du lịch qua họ ít bán quần áo, chỉ những tiệm có tính cách gây quỹ cho một charity nào đó mới có thôi.
Hôm nay đã cận tết lắm rồi, chỉ còn năm hôm nữa tết đến mà hai vợ chồng Hà còn lang thang ngao du ở Coeur d’alene, Idaho cách nhà bảy, tám tiếng lái xe. Hai vợ chồng chắc là phải thay nhau lái một mạch về nhà, dừng lại ăn đường, đổ xăng, thư giãn tay chân thôi, chứ không ngủ qua đêm nữa. Còn về nhà lo dọn dẹp bàn thờ, nhà cửa cho năm mới đang đến.
Hà nói với chồng:
Em vừa nhìn thấy cái bảng hiệu bán đồ cũ ở góc đường gần tiệm ăn, anh cho em ghé vào xem một chút rồi hãy ra xa lộ.
Đoàn biết ý vợ, cười dễ dãi:
Em thích thì vào, nhưng xe của mình không có chỗ cho em khênh cái gì to tướng về nhà đâu đấy nhé.
Tuy nói thế nhưng anh dư biết Hà chỉ thích đặt tay lên mấy cái vật cũ kỹ nhỏ bé, cầm lên để xuống, đứng tần ngần một lúc, rồi thôi. Nàng hay mua tách trà nhất, nàng đã có tới gần ba mươi cái tách khác nhau mua ở các tiệm đồ cũ rồi. Cái tủ chén ở nhà đã hết chỗ cho nàng chất thêm. Hà đã hứa nhiều lần sẽ không mua nữa, nhưng vào xem thì nhất định nàng phải vào mới hài lòng.
Hà dặn chồng ngồi ngoài xe đọc sách, “em vào mười lăm phút, ra ngay.” Đoàn vui vẻ, ngả cái ghế thấp ra sau một chút mang mấy cuốn tạp chí ra đọc, đợi vợ.
Cái tiệm Antique này không lớn lắm, nhưng chất khá nhiều hàng. Hà cầm lên bỏ xuống ngắm nghía đủ mọi thứ. Mỗi thứ đẩy trí tưởng tượng nàng đi thật xa hiện tại. Sợi dây đeo cổ này chắc phải thuộc về một phụ nữ giầu có nào từ vài chục năm về trước. Những hạt đá đỏ thẫm lấp lánh được gắn vào sợi dây vàng rất mỹ thuật, tuy cái móc đã mất mà giá khá cao trong một của tiệm như thế này. Hà tưởng tượng ra nó được đeo vào một chiếc cổ mịn màng nõn nà như cổ con thiên nga. Người phụ nữ đó bây giờ ở đâu, nàng còn sống, da mồi, tóc bạc, cổ nhăn nheo và đang ở trong một khu nhà già hay nàng đã nằm ngủ vùi trong lòng đất? Cái khăn quàng cổ bằng nhung lam đã bạc màu, nhưng đường ren gắn ở hai đầu khăn thì không hề mất một sợi chỉ nào. Ai choàng chiếc khăn này trong một buổi dạ vũ nhỉ; đôi giầy bạc kia nữa, chắc nó đi vào một bộ với nhau nên người ta mới bày cạnh nhau. Hà nhìn thấy ngay hình ảnh của người con gái mới lớn, má đỏ môi hồng, đang ngã vào vòng tay người đàn ông nàng yêu trong một vòng luân vũ. Ô, còn những khung hình này nữa, có cái hình đã tháo đi chỉ còn lại khung, cũ kỹ và trầy trụa, có cái còn nguyên hình của một cặp vợ chồng mặc quần áo của thế kỷ có Nã Phá Luân; rồi cái này, hình em bé gái độ lên 10, với chú thích chụp năm1911. Cả trăm năm rồi cơ à? Sao cái hình lại lưu lạc tới đây. Con cháu không giữ à?
Hà lan man bước len lỏi giữa những kệ hàng, cầm lên, bỏ xuống, thứ này thứ nọ, ngắm nghía và tưỏng tượng. Cuối cùng nàng cũng tới kệ bát đĩa. Chẳng cái nào đủ bộ cả. Bát lớn, bát nhỏ, đĩa và chén, ly thủy tinh nữa, chủ tiệm cứ xếp đầy lên kệ chẳng theo một thứ tự nào cả. Có những cái mới tinh, chẳng có dấu vết gì là đồ cổ Nhưng có những cái trông lạ lắm.
Hà cầm lên một cái tách trà nhỏ, có cả đĩa bên dưới. Hà ngắm nghía, lật trước, lật sau, ngẫm nghĩ:“Tách trà này chắc của Trung Quốc hay Việt Nam”, vì Hà tự nhiên thấy nó thân thuộc quá, cả hai đều có men xanh thật nhạt và vẽ một cành mai vàng rất mỹ thuật. Trên tách trà, phía ngoài vẽ nguyên một cành mai thếp vàng, phía trong lòng tách vẽ hai bông mai rơi trong tách, không có lá, nét vẽ tinh xảo trông như hai bông mai đang nổi trên mặt nước. Ở chiếc đĩa nhỏ kèm theo một bông mai lớn trên một cạnh đĩa, đầy đủ năm cánh với những đường gân của cánh hoa. Hà tự nhiên thấy rùng mình vì cái tinh xảo của những cánh mai. Bỗng một giọng đàn ông cất lên sau lưng làm nàng giật mình, tuy giọng nói đó nhẹ nhàng.
Bà nên mua cái tách này, nó đợi bà đến mang nó về đấy.
Hà quay hẳn người lại. Trước mặt nàng là một người đàn ông Á Châu, mặc dù cách phát âm tiếng Anh của ông khá giống như người bản xứ.
Ông trạc ngoài sáu mươi, tóc bạc, hơi gầy, trông khá tươm tất, nhưng buồn buồn ở hai con mắt. Hà chưa kịp nói gì thì ông ta đã nói tiếp:
Cái tách này ở trong một bộ sáu cái, hai cái lớn, bốn cái nhỏ, có ấm nữa. Nhưng do chiến tranh, cái thì mất, cái thì vỡ, cái ấm thì phải bán lúc cần tiền mua thuốc cho con. Khi hết chiến tranh, hết tù đầy, trở về, chỉ sót lại được có một cái nhỏ, may còn cả đĩa. Chủ nhân quý nó lắm, nhưng khi ông ta mất đi, con cái mang vật dụng của ông đem cho, nó cũng bị vứt chung trong đó. May mà không bị sứt mẻ gì.
Hà lơ đãng không để ý lắm đến lời ông kể lể, nàng còn mải chú ý nhìn giá tiền ghi, thấy hai mươi đồng. Nàng nghĩ thầm, mọi khi mình mua những cái tách lẻ ở tiệm đồ cũ như thế này, thì giá cao lắm cũng chỉ khoảng mười lăm đồng thôi.
Như đoán được ý nghĩ của Hà, người đàn ông nói:
Tôi biết là giá cao, nhưng tôi cứ để như thế cố ý không muốn ai mua, để chờ bà. Tôi sẽ hạ xuống mười lăm đồng thôi. Bà cứ lấy đi.
Hà vẫn cầm cái tách cái đĩa bằng cả hai tay. Nàng thấy nó đẹp quá, nếu ông chủ tiệm muốn bán hai mươi đồng thì nàng vẫn mua. Nàng nói:
Cám ơn ông, chắc chắn là tôi mua rồi. Tôi thích sưu tầm tách trà lạ và đẹp. Cái tách trà này tôi nghĩ là đẹp nhất trong số tách tôi có ở nhà.
Người đàn ông mỉm cười, nói xã giao mà như thật:
Tôi biết hôm nay bà sẽ ghé qua đây, tôi đợi suốt từ sáng đến giờ để trao nó cho bà, vì bà biết nhìn ra cái giá trị của nó. Trao được nó cho bà tôi rất yên tâm.
Người đàn ông nói xong, rút cái bút trên túi áo ra, sửa lại giá tiền của cái chén, rồi lại nói:
Chắc ông nhà đang chờ bà ngoài xe. Chúc bà về nhà bình an. Bà còn về lo sửa soạn đón năm mới. Năm nay bà có cái tách mai vàng cho chén trà đầu năm, sẽ may mắn nguyên năm.
Vâng, cám ơn ông, chắc ông cũng ăn Tết phải không? Ông là người Hoa hay người Việt.
Người đàn ông chỉ mỉm cười, không trả lời câu hỏi của Hà, đưa tay chỉ nàng ra chỗ quầy tính tiền.
Hà có cảm tưởng ông chủ tiệm này như một người mà nàng đã biết từ lâu lắm rồi. Nàng cố tìm trong trí nhớ xem ông ta có phải là bạn của cha mẹ mình không? Chắc là không? Vì cha mẹ Hà đã mất trên hai mươi năm rồi và khi mất cũng bằng trạc tuổi ông này bây giờ, thì làm sao mà họ là bạn với nhau được. Còn nữa, ông này chắc gì là người Việt. Cách phát âm tiếng Anh của ông ấy cho Hà biết ông ấy không phải đồng trang lứa với cha mẹ nàng.
Hà đặt chiếc tách trà lên quầy tính tiền, cô thâu ngân tóc vàng nhìn giá tiền trên cái tách trà, hơi cau mày lại. Cô nói trống không:
Lạ nhỉ, cái tách trà này, ông chủ tôi đề giá là mười lăm đồng, nhưng khi nào tôi ra thu dọn, lau bụi tôi cứ thấy bị sửa lại là hai mươi đồng. Vì giá cao nên chẳng ai mua. Bây giờ bà mang ra đây nó lại trở về giá mười lăm đồng.
Hà cười nói:
Số tôi may, hôm nay chính ông chủ thấy tôi cũng là người Á Đông nên ông bớt cho tôi năm đồng, ông ấy lấy bút mới sửa tức thì đấy.
Cô thâu ngân tròn mắt:
Ở đây làm gì có người Á Đông nào. Chủ tiệm là người Mỹ, tôi cũng là người Mỹ, hơn nữa ngày hôm nay chỉ có mình tôi ở đây, ông chủ bận không ra được. Bà có đùa cho vui không đấy?
Hà nghe lạnh buốt sau lưng. Nàng quay đầu lại, cố nhìn về phía kệ để bát đĩa, tuyệt nhiên không có bóng một ai, sát sau lưng kệ là bức tường ngang, chẳng có cánh cửa nào. Thế người đàn ông đó ở đâu ra? Nàng im lặng hấp tấp trả tiền rồi đi như chạy ra xe.
Suốt trên đường về nhà, Đoàn lái xe, ngưng lại, nghỉ giải lao. Hà cứ im lặng, chỉ trả lời những khi Đoàn hỏi làm Đoàn phải ngạc nhiên tưởng Hà bệnh.
Em sao vậy, em bệnh à?
Không, em không sao cả.
Hà nói dối. Nàng đang hoang mang không biết cái ông Á Đông nói chuyện về cái tách trà hoa mai ở đâu ra. Tiệm chỉ có bốn bức tường, không phải là một cái nhà ở, nơi đó không có thêm gian nào ngoài gian bán hàng. Mà sao ông ấy lại sửa giá tới, sửa giá lui để chờ nàng tới mua. Sao ông biết nàng sẽ tới.
Bỗng Hà thấy đau quặn ruột, nàng nghĩ ra rồi. Ông ấy là người Việt Nam. Ông ấy đã đi qua chiến tranh, qua mất mát, qua tù đầy, qua Mỹ và qua đời rồi.
Cái tách trà này trước đây là của gia đình ông. Ông muốn trao cho một người biết trân quý nó. Hà ôm chặt cái gói giấy vào lòng, nước mắt ràn rụa.
Nàng đã nói chuyện với một hồn ma, một cái hồn tha hương thất lạc tìm về quá khứ trong những ngày cuối năm.
Đêm ba mươi, Hà thắp nhang, pha trà để lên bàn thờ cha mẹ xong, nàng mang cái tách hoa mai vàng ra, cầm lên ngắm nghía. Hà thấy lòng nàng nao nao xúc động, nghĩ đến người đàn ông Á Đông trong tiệm đồ cũ. Ông có thật hay không? Hay nàng chỉ tưởng tượng ra vào những ngày cuối năm âm lịch, những ngày mà hồn nàng chao đảo nhất.
Nàng xót xa lan man nghĩ tới những người đàn ông Việt Nam đã đi qua chiến tranh, qua tù đầy, qua một nước khác không phải quê hương mình để sống nốt những ngày còn lại rồi qua đời ở quê người. Toàn là những vượt qua thống khổ, ngậm ngùi.

...

Nàng rót trà vào cái tách hoa mai, cúi xuống, nói nho nhỏ:
Xin mời ông ngụm trà đầu năm trong cái tách mai vàng gia bảo này.
Hà đợi cho tàn hết một tuần nhang, mở cửa ra trước hiên nhà, cầm tách trà rót xuống mặt đất tân niên.
Những cánh mai trong tách như theo nhau trôi vào lòng đất.

Trần Mộng Tú
Giao Thừa Giáp Ngọ 2014


ST
Back to top
« Last Edit: 11. Mar 2014 , 12:09 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #3 - 07. Mar 2014 , 19:46
 
Chiếc ví màu đỏ


Tôi không hiểu vì sao Ban giám đốc viện dưỡng lão lại nhận Kennie vào làm người giúp đỡ việc vặt cho các y tá. Khu ổ chuột nơi cậu ta ở đầy tội phạm và dân nghiện ma tuý... Kiểu cách ăn nói của Kennie thì cộc lốc, mặt mũi thì lầm lì. Tôi nghi rằng Kennie xin làm việc tình nguyện ở viện dưỡng lão nơi tôi làm y tá trưởng chỉ là để dòm ngó số thuốc morphin của viện, vì trước đây đã từng có trường hợp thuốc morphin bị tuồn ra ngoài bán cho dân nghiện... Hầu hết bệnh nhân ở Viện dưỡng lão đều bị một bệnh hiểm nghèo gì đó, hoặc đã rất già. Có người bị liệt, bán thân bất toại, lại có người hoàn toàn không còn minh mẫn. Bà Mary là một người như thế. Bà rất yếu. Chồng bà đã mất. Chúng tôi không rõ bà không có con cái, hay là họ đã bỏ mặc bà, vì không ai tới thăm bà Mary cả. Bà Mary luôn bị một ám ảnh là ai đó đã lấy mất cái ví của bà. Suốt ngày suốt đêm, cứ tỉnh dậy là bà đi tìm nó. Bà tìm từ ngoài vườn, đến trong nhà vệ sinh, phòng giặt đồ, bếp... Ai đi qua, bà cũng hỏi: - Cho tôi mượn cái lược được không? Lược của tôi ở trong cái ví đỏ, mà tôi mất cái ví rồi. Không biết cái ví của tôi đâu rồi? Tất cả chúng tôi đều biết là bà Mary làm gì có cái ví nào. Thường thì chúng tôi dừng lại một tíc tắc, gật đầu thông cảm rồi bỏ đi ngay. Tất cả chúng tôi bận chết đi được. Một chiều muộn, tôi bỗng thấy Kennie rảo bước đi ra từ phía phòng cấp phát dược phẩm, tay cầm một cái túi nylon sẫm màu. Trông nó lồng phồng rất đáng nghi. Tôi bám theo cậu ta, nấp sau những xe quần áo. Tôi thấy Kennie đi về phía bà Mary, đang ngồi chơi trên xe lăn ngoài cửa phòng mình. Cậu ta muốn giấu chỗ thuốc vừa lấy được ở chỗ bà cụ trước khi chuyển ra ngoài chăng? Vừa đến chỗ bà Mary, Kennie nhìn quanh, rõ ràng không muốn ai nhìn thấy việc mình đang làm. Kennie rón rén mở chiếc túi nylon. Tôi gần như nín thở chờ bắt quả tang cho đến khi cậu ta lấy ra một cái... ví lớn màu đỏ. Bà Mary gần như ôm chầm lấy Kennie vì ngạc nhiên và vui sướng. Bà giữ chặt lấy chiếc ví đỏ, đu đưa nó như ru một em bé. Kennie lại nhìn quanh một lần nữa. Chắc chắn rằng không có ai nhìn thấy, cậu ta mở chiếc ví, lấy ra một chiếc lược nhựa cũng màu đỏ và còn giơ cho bà Mary xem vài đồng xu trong ví. Những giọt nước mắt vui sướng lăn trên má bà Mary. ít nhất, tôi cũng đoán đó là những giọt nước mắt của niềm vui. Và mắt tôi cũng ướt. Kennie nắm nhẹ tay bà Mary, rồi bỏ cái túi nylon vào thùng rác gần đó, sau đó chào bà Mary và rảo bước tiếp dọc hành lang. Tôi chờ đến cuối ca trực rồi đứng đợi Kennie ở cửa. Cậu chuẩn bị đi về, tay cầm cái áo khoác cũ. - Chào Kennie!- Tôi mỉm cười - Cậu có thích công việc ở đây không? - Công việc tốt nhất mà em từng có đấy! - Cậu ta lẩm bẩm. - Cậu có định đi học để lấy bằng y tá không? Kennie lúng túng: - Chị đùa à? Bố mẹ em làm gì có tiền? - Nếu chị tìm được cách cho em học nghề y tá thì sao? Mắt Kennie bừng sáng. Tôi tin là tôi có thể giúp Kennie thành một y tá chuyên nghiệp. Và tôi cũng tin rằng lúc đó, trong phòng mình, bà Mary đang hạnh phúc, ôm chiếc ví đỏ trong tay.

Tác giả: Louise Moeri-Thục Hân (Dịch)

Nguồn: Webtretho.com
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #4 - 08. Mar 2014 , 16:28
 


Những Nốt Nhạc Xưa


   
Xe đò dừng lại đổ thêm xăng khi sắp vào thị trấn. Con đường nhựa ngoằn ngoèo quanh co qua mấy ngọn đồi trước khi đổ dốc vào trung tâm huyện lỵ. Nắng tháng chạp dát vàng trên các ngọn cây, đồi cỏ trong buổi chiều tà. Mấy chiếc xe bục bịch ngược chiều nặng nề leo dốc như muốn ì ra vì mệt. Tôi cũng thấy thân thể mỏi nhừ vì nửa ngày trời ngồi bí rị trên chuyến xe đi từ thành phố về…
Thị trấn núi hiền lành hiện ra trước mắt tôi với nhiều đổi khác. Bến xe nằm sát ngay chợ trung tâm, chung quanh là các hiệu buôn, tiệm vàng, quầy tạp hóa đông đúc người qua lại. Nơi này xưa kia là bãi ruộng khô ăn nước trời một vụ. Rồi nhà cửa hiện ra san sát và thẳng băng theo các con đường ngang dọc như bàn cờ. Cảnh vật đối với tôi mới mẽ và lạ lẫm như thể tôi chưa hề sống tại đây trong một khoảng thời gian dài cách đây đã hơn hai mươi lăm năm. Cũng phải thôi! Hai mươi lăm năm, một phần tư thế kỷ chưa hẳn là khoảng thời gian thật dài so với một đời người nhưng cũng khá đủ cho mọi sự đổi thay, người ta vẫn hay nói “thương hải tang điền” mà… Và nếu không có việc xác nhận hồ sơ để làm thủ tục bảo hiểm chuẩn bị cho việc về hưu sớm thì có lẽ tôi cũng chẳng có dịp nào quay về chốn cũ...
Tôi đi dọc con đường lượn theo chân đồi, nơi cuối đường là ngôi trường trung học nằm nấp sau những tán cây cổ thụ. Con đường này trước đây tôi vẫn thường hay đi lại, bây giờ cũng đổi khác. Thảm bê tông nhựa thay thế cho con đường đất đỏ gập ghềnh những ổ chuột ngập nước trong mùa mưa và bụi mù những ngày nắng. Tôi dừng lại và ngồi dưới gốc cây da to trước cổng trường. Gốc cây như gồ ghề và xù xì hơn nhiều so với trước đây, trên mình chi chít những dấu vết nghịch phá của lũ học trò. Một khoảng trời xa lắc trong ký ức tôi chợt hiện ra…
xxx
Học xong bằng sư phạm năm bảy chín tôi được phân công về dạy tại huyện miền núi này. Cầm quyết định trên tay tôi do dự và băn khoăn mãi. Mẹ tôi nói, thôi bỏ dạy ở lại phố chạy chợ với mẹ. Ba tôi thì trầm ngâm, chẳng nói gì, thỉnh thoảng lại tặc lưỡi và khẽ khàng trách cứ ngành giáo dục quá khắc khe khi phân nhiệm con gái ông về công tác miền núi, rồi nói tôi muốn sao thì muốn, tùy. Sau một tuần lang thang khắp phố phường gặm nhấm nỗi cô đơn đến cùng cực, nhìn lũ em nheo nhóc, cộng với cái cám cảnh phố thị nghèo nàn của những năm đầu sau giải phóng, tôi quyết định lên đường. Và thế là tôi đã đến đây, lòng không hề nghĩ rằng mình sẽ gắn bó với vùng đất này suốt năm năm sau đó. Cũng chẳng có gì đáng nói về những ngày tôi dạy học ở ngôi trường này. Vui buồn là qui luật bất biến của đời sống và tôi cũng đã có đủ những niềm vui, nỗi buồn, sự bực tức và kể cả nhiều cảm tình thú vị. Người ta thường hay có thói quen cứ gắn kết cho kỷ niệm những điều vui để xuýt xoa mỗi lần hồi tưởng hay nhớ lại. Tôi cho đó là sự cường điệu màu mè. Tính mày ngang bướng và giống đàn ông. Mẹ tôi vẫn thường hay nói về tôi như vậy dù thật ra trong đời tôi đã gặp phải vô khối đàn ông… còn tệ hơn tôi nhiều.
Mới đầu tôi chẳng hiểu từ lúc nào và tại sao lũ học trò của tôi gọi anh ta là “chú kinh tế mới”. Anh ta còn khá trẻ và nếu chịu khó nhìn kỷ thì thấy cũng… đẹp trai, dù bộ râu mép lởm chởm cùng cái đầu bù xù làm anh ta thêm tối tăm bên cạnh nước da rám đen vì dang nắng. Hỏi ra mới biết cách đó gần mười cây số có một vùng kinh tế mới, nơi tập trung sinh sống của nhiều sĩ quan chế độ VNCH sau khi đã mãn hạn tập trung cải tạo. Ban đầu tôi chỉ đứng xa nhìn, thấy anh ta cười cười nói nói gì đó với mấy đứa học trò. Những lúc ấy tôi cảm thấy thật khó chịu. Tôi vốn dị ứng với người hay cười. Bởi vì hai lý do. Thứ nhất, (không phải tôi là người khó tính nhưng) với tôi nụ cười phải xuất phát từ đáy lòng, và như vậy chỉ cười khi có được niềm vui đích thực chứ không dùng để nịnh nọt hay cầu cạnh ai đó. Lý do thứ hai (là quan niệm chủ quan của tôi): người hay cười thường là người hèn, tất nhiên không tính tới những nụ cười của sự thân thiện chân tình.
Công việc của “chú kinh tế mới” cũng đơn giản và hay hay: bơm mực bút bi và bán một số học cụ như compa, thước kẻ, bút máy… Nhưng có lẽ điểm hấp dẫn đối với bọn trẻ là được khắc tên miễn phí. Một cây thép nhọn đơn giản cày trên mặt bút thoáng chốc bỗng là Trần Thị X, Nguyễn Văn Y với những đường cong mềm mại và đều tăm tắp. Thoa một lượt phấn trắng lên nữa là xong, cây bút, cây thước in rõ tên chủ sở hữu đầy ấn tượng. Trong những dịp lễ tết hay chuẩn bị nghỉ hè thì thay vì những cái tên là những dòng chữ lưu niệm, những lời chúc tặng, chia tay… Tôi lại “di ứng” một lần nữa với anh ta bởi tôi rất ghét màu mè, “đồng bóng”. Trước giờ tôi vẫn nghĩ hình như những lời chúc tụng hoa mỹ có vẻ gì đó không thật. Chẳng hạn như ngày tết chúc nhau an khang, thịnh vượng, phát tài phát lộc trong khi ngày thường chả yêu quí gì nhau, nếu không muốn nói là ghét nhau. Hình như bản chất con người là rất thích nghe những lời lẽ tâng bốc cho vừa lòng mình, dù đôi khi vẫn biết đó là những lời dối trá. Và như vậy thì thật là tệ hai!
Thường những lần xong giờ dạy giữa buổi học, tôi lững thững đi bộ về khu nội trú giáo viên, ngang qua gốc cây da nơi có chiếc xe đạp với “quầy hàng lưu động” của anh ta và liếc nhìn vào. Có lúc thấy anh ta đang sắp xếp lại những thứ đồ đạc lỉnh kỉnh, có lúc thấy anh ta chạm chạm khắc khắc, có lúc lại thấy anh ta ngồi buồn thiu dưới gốc cây, mắt nhìn đi đâu đó. Tuyệt đối chả thấy anh ta mời chào, chọc ghẹo, hay thậm chí để mắt tới mình. Càng tốt. Mới đầu tôi nghĩ vậy nhưng mấy lần sau tự nhiên hơi bực. Một đứa con gái “trí thức” và dễ nhìn lại mang cái mác thành phố như tôi - biểu hiện qua cách ăn mặc nè - lẽ nào không hề gây sự chú ý gì nơi một gã đàn ông?... Thôi kệ, tôi tự nhủ. Tri ngã dã bất tri ngã dã… Nhưng kệ gì thì kệ, vẫn có một chút ấm ức chạy dọc suốt từ bụng tôi lên tới cổ…
Mùa xuân năm đó trường tổ chức cho các lớp thi báo tường. Yêu cầu phải đầy đủ các thể loại văn thơ nhạc họa. Văn thơ và tranh vẽ phải là những sáng tác mới của các em, riêng nhạc được phép sưu tầm các bài hát quen thuộc và điểm chấm được tính vào việc chép đúng, đều và đẹp các nốt và lời ca của bản nhạc. Tôi được phân công vào ban giám khảo chấm phần hình thức. Thật lạ! Các nhạc phẩm đều được các em chép đều, đẹp và vô cùng cân đối. Các nốt nhạc hoặc to, hoặc nhỏ, hoặc nghiêng, hoặc đứng đều thẳng băng và giống nhau như đúc. Có vẻ như có cái gì đó không bình thường ở đây. Bởi vì trong hai mươi tờ báo của hai mươi lớp chỉ có mười tờ có những bản nhạc đẹp, mười tờ kia nốt nhạc vụng về, méo mó và đầy lỗi. Không thể có sự chênh lệch trong cái khéo tay của lũ học trò cùng trang lứa được. Nhưng dù sao đi nữa cũng phải chấm, cho điểm, bình chọn và trao giải cho kịp ngày các em nghỉ tết. Tôi tạm gác lại chuyện này để chuẩn bị về nhà ăn tết với gia đình.
Mồng sáu là ngày các em đi học lại. Nhưng chỉ là qui ước vậy thôi chứ ở thôn quê người ta hay kéo dài thêm niềm vui của ba ngày tết. Cũng là điều hợp lý bởi quanh năm đầu tắt mặt tối bán lưng cho trời bán mặt cho đất để có được ba ngày xuân thì quả là hơi ít. Chơi thêm cho đến hết rằm vậy. Bởi vậy thầy trò chúng tôi chỉ dạy và học kiểu cầm chừng, dành thêm thời gian đến chúc tết phụ huynh và các giáo viên người bản xứ. Và qua trò chuyện với các em tôi được biết thêm một điều thú vị là những bản nhạc trên báo tường hôm trước được kẻ thật đều và đẹp kia đều do một tay “chú kinh tế mới” làm ra. Tôi ngạc nhiên, tò mò và có ý mong gặp lại anh ta…
Nhưng rồi mãi đến gần nghỉ hè tôi mới được gặp lại vì anh ta đi vắng từ trước tết cho đến tháng tư. Hôm ấy lấy cớ cần khắc một dòng chữ trên chiếc bút máy làm quà cho nhỏ em trong dịp nghỉ hè, tôi tìm tới gốc cây da. Trong lúc anh ta chăm chú khắc chữ tôi gợi chuyện:
- Anh làm việc này lâu chưa?
- Ý cô hỏi việc gì?
- Thì bán dụng cụ học sinh và khắc chữ nè.
- À, cũng vài năm nay rồi.
- Anh có làm nghề gì khác nữa không?
- Có chớ. Nghề chính của tôi là làm rẫy mà. Đây chỉ là công việc làm thêm, trước cho vui, sau là kiếm thêm chút đỉnh để bồi dưỡng thịt cá cho ông bà già.
- Anh vẫn còn ở với cha mẹ à? - Tôi tò mò.
- Chớ sao, nếu không thì tôi ở với ai bây giờ.
Tôi hơi bối rồi:
- À không, ý tôi là…
- Ờ, tôi hiểu rồi. Tôi chưa có gia đình riêng. Còn trẻ mà cô. - Anh ta thoáng nhìn tôi mĩm cười.
- Vậy chắc nhà anh đông người lắm hả? Nếu không thì anh đâu phải đi làm thêm để… - tôi loay hoay tìm chữ để diễn đạt - cải thiện đời sống?
Anh ta cười hì hì:
- Nhà chỉ có ông bà già với tôi thôi. Tôi cũng có mấy anh chị nhưng họ đã có gia đình riêng cả rồi.
Máu tò mò con gái trong tôi lại nổi lên:
- Từ tết tới giờ anh đi đâu mà không thấy tới đây “chơi” với mấy đưa học trò?
- À, sau tết tôi bận thu hoạch mía. Xong cây mía lại làm đất chuẩn bị cho mấy đám lúa thổ sau mồng năm tháng năm là xuống giống.
Tôi vờ khen:
- Anh giỏi thiệt đó. Anh còn biết việc gì nữa không?
Anh thật thà:
- Giỏi gì đâu cô. Chỉ là cuộc đời dạy cho thôi mà. Tôi cũng biết nghề mộc nữa đó. Nghề này học được trong tù, à quên, trong trại cải tạo…
Anh ta mở hộp lấy viên phấn trắng bôi lên hàng chữ vừa khắc, lấy khăn lau qua một lượt, những lớp bụi bên ngoài biến mất còn lại hàng chữ trắng nổi lên trên nền xanh của cây bút.
Anh cầm bút đưa tôi:
- Đây, bút của cô. Tôi không lấy tiền công đâu. Khắc dùm cô chút thôi. Lần sau có cần giúp gì cứ nói, cô đừng ngại.
Không biết nói gì nữa tôi đành phải chào rồi đi. Vẫn chưa có cơ hội để hỏi về những nốt nhạc. Tôi cứ băn khoăn hoài. Tính tôi trước giờ như vậy. Hễ muốn điều gì là phải làm hay tìm hiểu cho bằng được mới thôi. Thật ra tôi không phải là đứa hiếu kỳ hoặc có nhiều đòi hỏi. Tôi chỉ có mỗi cái tật (ưu hay khuyết đây?) rằng đã làm việc gì thì phải làm cho đến cùng, đã hiểu biết gì thì phải hiểu cho tường tận, cho đến khi thỏa mãn thì thôi. Má tôi vẫn thường hay nói tính mày đa mang, rồi không sướng đâu con ạ. Tôi không tin.
Cuối năm học, một phụ huynh tặng tôi súc gỗ hương đủ để đóng một cái table de nuit hoặc một cái bàn trang điểm nho nhỏ. Tôi chợt nghĩ đến anh ta và cho mời anh đến. Xem xét hồi lâu anh nói:
- Đóng cái table de nuit phải mất ba ngày công đó cô.
Tôi nói:
- Được thôi, anh sắp xếp công việc giúp tôi ba ngày được không?
- Tôi có thể chở súc gỗ này về đóng tại nhà cũng được.
Tôi suy nghĩ một lát. Tôi muốn xem anh ta làm, và sâu xa hơn là tôi muốn nói chuyện với anh:
- Không phải mất công vậy đâu, anh cứ làm việc tại đây đi. Sáng lên, chiều về, đồng ý chớ? Buổi trưa tôi sẽ nấu cơm cho anh ăn.
Anh cười cười:
- Không phiền vậy đâu. Nếu cô muốn tôi sẽ mang đồ nghề lên đây làm cho cô cũng được. Còn chuyện ăn uống tôi tự lo được thôi.
Trong ba ngày sau đó, ngoài giờ lên lớp tôi thường ngồi xem anh làm việc. Súc gỗ được mang ra lâm trường xẻ thành nhiều khúc đoạn. Cái thì để làm khung, làm đế. Mặt ván có những đường vân đẹp được chọn làm mặt và cánh tủ. Vừa cưa cưa đục đục anh vừa nói chuyện với tôi. Thì ra anh nguyên là sinh viên trường Mỹ thuật Sài Gòn, bị động viên đi lính năm bảy hai. Sau bảy lăm bị cải tạo năm năm vì là sĩ quan thủy quân lục chiến. Sau khi được thả về cả nhà anh phải đi kinh tế mới vì thuộc diện cần tập trung quản lý. Mấy vụ này tôi chẳng lạ gì vì tôi sống và lớn lên ở miền Nam, và dù ba má tôi chỉ là người buôn bán nhưng bà con họ hàng không thiếu gì người tham gia bộ máy chính quyền trước đây nay phải long đong lận đận.
Tôi chợt hỏi một câu lãng nhách:
- Anh có buồn không?
Anh cười:
- Buồn gì chứ? Chỉ hơi áy náy là vì mình mà cha mẹ già phải chịu khổ lây. Nên mọi việc tôi cố làm đây chỉ là để báo đáp phần nào cho cha mẹ thôi.
Tôi lại tiếp tục “lãng nhách” bằng mấy câu kiểu an ủi vụng về. Anh cười to, nói:
- Trời, tôi đã nói là tôi có buồn gì đâu. Sao cô lại phải an ủi tôi làm gì. Tụi tôi là dân “cư an tư nguy” mà.
Tôi ráng gồng mình, vận dụng trí nhớ xem cái “cư an tư nguy” này hồi xưa mình có học ở đâu chưa nhưng chịu, chả nhớ là đã nghe bao giờ. Biết là hơi quê nhưng tôi vẫn hỏi:
- À, cái “cư an tư nguy” mà anh vừa nói là…?
Nhìn thấy vẻ ngượng nghịu trên mặt tôi, anh vội nói:
- Ờ, câu này cũng xưa rồi, nay không còn ai dùng nữa nên cô chưa nghe đó…
Tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên vì xấu hỗ nhưng cố trấn tĩnh lại, chuyển qua hỏi về mấy bản nhạc trong báo tường của học sinh hôm tết. Anh nói:
- Có gì đâu. Thấy tụi nhỏ chép nhạc vất vả quá nên tôi kẻ dùm tụi nó cho nhanh.
- Nhưng sao hình nốt trong mỗi bài không giống nhau, dù nhìn kỷ vẫn biết là do một người viết ra?
- Tôi kẻ nhạc theo nội dung bài hát. Nếu là hành ca, nốt nhạc phải cao, nhọn, nốt móc phải sắc bén như gươm đao, hình nốt phải to, khỏe. Nếu là tình ca, nốt nhạc phải hơi nghiêng về phía trước như những lời thì thầm trò chuyện với nhau, nốt móc phải hơi gầy, bụng thon, hình nốt ô van vừa phải. Nếu là bài ca về trường lớp, về thầy cô, nốt nhạc phải đứng đắn, trang trọng, nốt móc phải bầu bĩnh, hình nốt hơi tròn… Còn nếu là bài hát nói về tuổi học trò hồn nhiên nghịch ngợm thì nốt nhạc phải hơi nghiêng về phía sau, nốt móc ngắn và nhỏ, hình nốt dẹp, vân vân. Nói tóm lại để kẻ một bản nhạc mình phải nắm được cái hồn của nó…
Nhìn tôi mở to mắt ngạc nhiên anh cười:
- Có bài hát nào cô thích cứ đưa vở đây, tôi sẽ kẻ nhạc giúp cho cô…
Tôi còn có dịp trò chuyện với anh nhiều lần sau đó. Lúc thì nhờ anh kẻ hộ một nhạc phẩm mới của Trịnh Công Sơn, một bài hát cũ của Văn Cao, lúc thì chỉ tán chuyện vu vơ về âm nhạc và hội họa. Cuối năm học ấy mãn nhiệm, tôi thuyên chuyển về phố. Trước ngày tôi về anh mang đến tặng tôi một tượng gỗ nhỏ chỉ bằng gang tay. Đó là chân dung tôi với khuôn mặt và mái tóc ương bướng nhìn không lẫn đi đâu được. Anh nói gia đình anh cũng sắp sửa chuyển đi và chúc tôi gặp mọi điều may mắn…
Bận rộn với nhiệm sở mới nên tôi cũng quên, ít khi nhớ hoặc nghĩ về anh và những nốt nhạc. Chỉ thỉnh thoảng những lúc ngồi nhìn bức tượng nhỏ tôi lại nghĩ về anh ta chút đỉnh rồi thôi… Một vài người đàn ông đã đến với tôi. Hôn hít, vuốt ve nhau một cách nhạt nhẽo rồi chia tay. Mẹ tôi phàn nàn nói tôi là đứa gàn. Năm tháng trôi qua, cuộc sống cũ kỹ với những va chạm nhỏ mọn mãi rồi cũng làm tôi tuyệt vọng. Tôi đã nghĩ lựa chọn công việc “dạy học” thì mình sẽ được bình yên nhưng hóa ra trật lất. Ở đây đi tìm cái “liêm sĩ” cũng mệt nhoài! Bây giờ thì tôi đã hiểu cái “cư an tư nguy” mà một người đàn ông đã từng nói với tôi nhiều năm về trước. Tôi chợt nhận ra rằng phải có cái tâm lớn thật sự người đàn ông kia mới thể hiện chân thật cuộc sống qua từng nốt nhạc hay tác phẩm nào đó của mình. Thảo nào anh ta đã sống lạc quan và yêu đời như vậy! Không biết bây giờ anh ấy ở đâu, làm gì? Còn ở trong nước hay đã đi ra nước ngoài? Nhưng dù ở đâu và làm gì đi nữa tôi vẫn xác tín rằng anh không bao giờ là một người bất hạnh…

Lê Phú Hải
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #5 - 10. Mar 2014 , 12:38
 
Tô mì của người lạ


Tối hôm đó Sue cãi nhau với mẹ, rồi không mang gì theo cô đùng đùng ra khỏi nhà. Trong lúc đang trên đường, cô mới nhớ ra rằng mình chẳng có đồng bạc nào trong túi, thậm chí không có đủ mấy xu để gọi điện về nhà.

Cùng lúc đó cô đi qua một quán mì, mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm cô chợt cảm thấy đói ngấu. Cô thèm một tô mì lắm nhưng lại không có tiền!

Người bán mì thấy cô đứng tần ngần trước quấy hàng bèn hỏi:

- Này cô bé, cô có muốn ăn một tô không?

- Nhưng... nhưng cháu không mang theo tiền... - cô thẹn thùng trả lời.

- Ðược rồi, tôi sẽ đãi cô - người bán nói - Vào đây, tôi nấu cho cô một tô mì.

Mấy phút sau ông chủ quán bưng tới cho cô một tô mì bốc khói. Ngồi ăn được mấy miếng, Sue lại bật khóc

- Có chuyện gì vậy? - ông ta hỏi

- Không có gì. Tại cháu cảm động quá! - Sue vừa nói vừa lấy tay quẹt nước mắt.
- Thậm chí một người không quen ngoài đường còn cho cháu một tô mì, còn mẹ cháu, sau khi cự cãi đã đuổi cháu ra khỏi nhà. Chú là người lạ mà còn tỏ ra quan tâm đến cháu, còn mẹ cháu.... "bả" ác độc quá!!" - cô bé nói với người bán mì...

Nghe Sue nói, ông chủ quán thở dài:

- Này cô bé, sao lại nghĩ như vậy? Hãy suy nghĩ lại đi, tôi mới chỉ đãi cô một tô mì mà cô cảm động như vậy, còn mẹ cô đã nuôi cô từ khi cô còn nhỏ xíu, sao cô không biết ơn mà lại còn dám cãi lời mẹ nữa?

Sue giật mình ngạc nhiên khi nghe điều đó.

"Tại sao mình lại không nghĩ ra nhỉ? Một tô mì của người lạ mà mình cảm thấy mang ơn, còn mẹ mình đã nuôi mình hàng bao năm qua mà thậm chí mình chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến mẹ dù chỉ một chút. Mà chỉ vì chuyện nhỏ mình lại cự cãi với mẹ.

Trên đường về, cô thầm nghĩ trong đầu những điều cô sẽ nói với mẹ:" Mẹ ơi, con xin lỗi. Con biết đó là lỗi của con, xin mẹ tha thứ cho con..."

Khi bước lên thềm, cô nhìn thấy mẹ đang lo lắng và mệt mỏi vì đã tìm kiếm cô khắp nơi. Nhìn thấy Sue, mẹ cô nói:" Sue, vào nhà đi con. Chắc con đói bụng lắm rồi phải không? Cơm nước mẹ nấu xong rồi, vào nhà ăn ngay cho nóng..."
Không thể kiềm giữ được nữa, Sue òa khóc trong tay mẹ.

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta dễ cảm kích với những hành động nhỏ mà một số người chung quanh làm cho chúng ta, nhưng đối với những người thân thuộc, nhất là cha mẹ, chúng ta lại xem sự hi sinh của họ như chuyện đương nhiên...

Tình yêu và sự quan tâm lo lắng của cha mẹ là món quá quý giá nhất mà chúng ta được tặng từ khi mới chào đời.

Cha mẹ không mong đợi chúng ta trả công nuôi dưỡng nhưng......
Liệu có bao giờ chúng ta quý trọng sự hy sinh vô điều kiện này của cha mẹ chúng ta chưa??

Nguồn: http://songdep.xitrum.net/mamuom/206.html
Back to top
 
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #6 - 10. Mar 2014 , 19:56
 
Tuyet Lan wrote on 10. Mar 2014 , 12:38:
Tô mì của người lạ


Tối hôm đó Sue cãi nhau với mẹ, rồi không mang gì theo cô đùng đùng ra khỏi nhà. Trong lúc đang trên đường, cô mới nhớ ra rằng mình chẳng có đồng bạc nào trong túi, thậm chí không có đủ mấy xu để gọi điện về nhà.

Cùng lúc đó cô đi qua một quán mì, mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm cô chợt cảm thấy đói ngấu. Cô thèm một tô mì lắm nhưng lại không có tiền!

Người bán mì thấy cô đứng tần ngần trước quấy hàng bèn hỏi:

- Này cô bé, cô có muốn ăn một tô không?

- Nhưng... nhưng cháu không mang theo tiền... - cô thẹn thùng trả lời.

- Ðược rồi, tôi sẽ đãi cô - người bán nói - Vào đây, tôi nấu cho cô một tô mì.

Mấy phút sau ông chủ quán bưng tới cho cô một tô mì bốc khói. Ngồi ăn được mấy miếng, Sue lại bật khóc

- Có chuyện gì vậy? - ông ta hỏi

- Không có gì. Tại cháu cảm động quá! - Sue vừa nói vừa lấy tay quẹt nước mắt.
- Thậm chí một người không quen ngoài đường còn cho cháu một tô mì, còn mẹ cháu, sau khi cự cãi đã đuổi cháu ra khỏi nhà. Chú là người lạ mà còn tỏ ra quan tâm đến cháu, còn mẹ cháu.... "bả" ác độc quá!!" - cô bé nói với người bán mì...

Nghe Sue nói, ông chủ quán thở dài:

- Này cô bé, sao lại nghĩ như vậy? Hãy suy nghĩ lại đi, tôi mới chỉ đãi cô một tô mì mà cô cảm động như vậy, còn mẹ cô đã nuôi cô từ khi cô còn nhỏ xíu, sao cô không biết ơn mà lại còn dám cãi lời mẹ nữa?

Sue giật mình ngạc nhiên khi nghe điều đó.

"Tại sao mình lại không nghĩ ra nhỉ? Một tô mì của người lạ mà mình cảm thấy mang ơn, còn mẹ mình đã nuôi mình hàng bao năm qua mà thậm chí mình chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến mẹ dù chỉ một chút. Mà chỉ vì chuyện nhỏ mình lại cự cãi với mẹ.

Trên đường về, cô thầm nghĩ trong đầu những điều cô sẽ nói với mẹ:" Mẹ ơi, con xin lỗi. Con biết đó là lỗi của con, xin mẹ tha thứ cho con..."

Khi bước lên thềm, cô nhìn thấy mẹ đang lo lắng và mệt mỏi vì đã tìm kiếm cô khắp nơi. Nhìn thấy Sue, mẹ cô nói:" Sue, vào nhà đi con. Chắc con đói bụng lắm rồi phải không? Cơm nước mẹ nấu xong rồi, vào nhà ăn ngay cho nóng..."
Không thể kiềm giữ được nữa, Sue òa khóc trong tay mẹ.

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta dễ cảm kích với những hành động nhỏ mà một số người chung quanh làm cho chúng ta, nhưng đối với những người thân thuộc, nhất là cha mẹ, chúng ta lại xem sự hi sinh của họ như chuyện đương nhiên...

Tình yêu và sự quan tâm lo lắng của cha mẹ là món quá quý giá nhất mà chúng ta được tặng từ khi mới chào đời.

Cha mẹ không mong đợi chúng ta trả công nuôi dưỡng nhưng......
Liệu có bao giờ chúng ta quý trọng sự hy sinh vô điều kiện này của cha mẹ chúng ta chưa??

Nguồn: http://songdep.xitrum.net/mamuom/206.html



...

Tl thương quý ,

Cảm động với bài viết về Mẹ , và hình như 2 đứa mình cùng tâm trạng phải không ? nhất là thời tiết ảm đạm , thật cô đơn làm mình nhớ Mẹ nhiều hơn. ( vì cả gd Tv ở Vn , Mẹ và 2 người chị 2 , 3 đã mất , chỉ còn chị 4 và em trai Út Hiếu ở Vn ).
  Chúc TL mau hồi phục và chân thành cám ơn, và  hình như Mẹ mình đâu đây làm mình thật ấm lòng.

  TvMs
Back to top
 

hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #7 - 11. Mar 2014 , 12:05
 

Chuyện Thằng Bé Tỵ Nạn Bất Đắc Dĩ


   
Tùng khẽ nhếch vai để cái túi đi học đeo sau lưng trở lại tư thế gọn gàng. Nó ngoái cổ ra sau kiểm tra lần cuối cẩn thận, và đẩy cửa, giữ vẻ thản nhiên bước vô nhà.
Nó kinh ngạc khi thấy "Dad" John của nó đăm chiêu đi qua đi lại trong phòng khách. "Ủa, sao hôm nay ổng về sớm vậy cà?" Tùng nghĩ thầm. Thấy Tùng đi vào, ông mừng rỡ chạy lại ôm nó.
-Ồ, con đã về! Con đi đâu làm ta lo quá!
-Con đi học về, Dad!
Đang hoan hỉ, ông John bỗng xịu xuống, trở nên nghiêm khắc. Ông buông Tùng ra, đứng lên lạnh lùng:
-Con nói dối. Hôm nay nhà trường điện thoại cho "Mom" nói con không đi học khiến ta phải bỏ làm về kiếm con cả ngày nay.
Thằng Tùng sợ đến rụng rời tay chân. Trời ơi, vậy là lộ tẩy rồi! Nó mới nghỉ học có một ngày, đã gọi về nhà? Cái trường chi quái ác. nó vẫn cố chống chế:
-Con đi học thiệt mà Dad.
-Đừng dối ta, đó là một thói xấu. Hãy cho ta biết chuyện gì xảy ra, và con đã làm gì vì ta đã gọi cảnh sát, tí nữa ta và mom phải báo cáo với họ.
Nghe hai chữ "cảnh sát", Tùng càng hoảng. Câu chuyện không nhỏ như nó nghĩ. Hồi còn ở quê nhà, thỉnh thoảng nó cũng trốn học mấy lần đi tắm sông với tụi bạn, có ai hay đâu. Qua đây mới lần đầu tiên đã bị bắt tại trận. Tùng cảm thấy vừa lo vừa ngượng ngùng vì lỡ nói dối bố mẹ nuôi nó. Nó đỏ mặt ngượng nghịu cúi đầu, không dám nhìn ông John.
Giữa lúc Tùng chưa biết trả lời như thế nào thì cánh cửa bật mở. Bà Linda, "Mom" của nó hớt hải đi vào, nói không ra hơi:
-Kiếm khắp nơi mà vẫn không...
Bà ta ngưng lại khi thấy Tùng đứng đó. Bà trợn xòe mắt như không tin ở chính mình, kêu lên, "Lạy chúa tôi!", quên hết cơn mệt chạy lại ôm choàng Tùng.
-Con đi đâu cả ngày?
Vừa nói, bà Linda vừa nhìn thằng bé từ đầu đến chân xem nó có bị xây xát trầy trụa chỗ nào không. Thái độ đầy quan tâm của "mom" làm Tùng thêm bối rối, cúi gầm mặt. Sau khi xem xét và thấy Tùng vẫn lành lặn, bà Linda yên tâm nắm tay nó kéo vào bếp.
-Tội nghiệp con tôi, chắc nó đói rồi, vào đây mẹ lấy pizza cho ăn.
Nhưng ông John đã cản lại:
-Khoan đã, tí nữa rồi ăn. Tùng phải nói chuyện gì khiến con nghỉ học không xin phép hôm nay. Lát nữa cảnh sát sẽ lại đây đó.
-Ông sao gấp quá, để cho con ăn xong rồi hỏi cũng được mà.
-Bà thương nó quá không được. Nên nhớ nó mới qua và chưa rành luật lệ. Tôi phải biết nó đã làm gì để trả lời với họ chứ.
Nghe ông John nói, bà Linda không biết làm sao hơn, cúi xuống dỗ Tùng:
-Cũng được. Tùng nói cho mom biết tại sao con không tới trường hôm nay đi. Nếu con chỉ đi chơi mà không làm gì bậy, mom sẽ tha. Lần sau đừng như vậy nữa.
-Con, con...
Thằng Tùng ấp úng, nó biết nói sao bây giờ? Đã đành nó trốn học và nói dối là hai lỗi lớn. Nhưng nào phải nó đi chơi hay làm gì bậy đâu.
-Con đi... shopping.
-Shopping ư? Con mua gì ở đó? Hai ông bà ngạc nhiên.
Tùng tháo cái túi đi học trên lưng xuống. Lúc này, ông bà John và Linda mới chú ý đến cái túi gồ ghề hơn mọi ngày trên lưng thằng bé. Nó cẩn thận lấy ra một gói giấy: cái xe lửa chạy bằng pin.
Ông John thảng thốt:
-Con lớn rồi sao còn chơi cái đồ này?
-Tiền đâu con mua nó? Bà Linda tiếp.
-Con đi bỏ báo mua cái này cho em con ở Việt Nam.
Thằng Tùng bỗng bật khóc. Nó như được cởi mở tấm lòng.
Hai ông bà John và Linda nhìn nhau. Họ linh cảm đứa con nuôi trước mặt đang mang một tâm sự chồng chất mà nó giấu kín. Nguyên nhân sự nghỉ học của nó hôm nay có lẽ bắt nguồn từ đó...
Tâm sự của thằng Tùng: Nó là một thuyền nhân bất đắc dĩ.
Nói ra thì có vẻ hi hữu, nhưng trên đời có nhiều chuyện xảy ra một cách kỳ cục không ai có thể liệu định được. Và một trong những cái “ kỳ cục” đó đã xảy ra với Tùng hơn một năm trước đây, khi nó vẫn còn mang giỏ mía ghim lang thang trên bến đò Kiên Lương mỗi buổi chiều kiếm thêm chút tiền giúp đỡ gia đình.
Đúng ra nhà thằng Tùng cũng không nghèo lắm. Trước ngày giải phóng, ba nó là Trung Úy Pháo binh đóng ở Cà Mau, má nó làm cô giáo tiẻu học. Nhưng tai họa đã giáng xuống gia đình Tùng sau ngày 30/4 năm đó. Ba nó phải đi học tập cải tạo. Tưởng chỉ có 10 ngày là xong, ai ngờ đến 6 năm sau, khi Tùng rời quê nhà vẫn chưa gặp lại ba. Má nó bị cho nghỉ dạy vì là "vợ sĩ quan Ngụy". Gia đình Tùng khốn đốn từ đó. Đã mất việc, lại thêm phải nuôi ba nó trong tù, má Tùng phải tất tả làm đủ mọi việc để nuôi bốn miệng ăn. Ban ngày bà ra chợ trời, buôn đi bán lại, tối về bà phải nhận may vá thêm cho anh em Tùng đủ điều kiện cắp sách đến trường.
Cuộc sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Tính, em nó, còn nhỏ chưa biết gì nhiều, nhưng Tùng đã lớn, dù nó chỉ học lớp Sáu. Sự nghèo khổ và nhọc nhằn đã khiến Tùng khôn trước tuổi để thấy những sợi tóc bạc ngày càng rậm trên nét mặt khắc khổ của má. Những lần bà phải đôn đáo vay mượn trong mỗi dịp gửi đồ tiếp tế cho ba nó trong tù...đã đẩy Tùng ra ngoài xã hội.
Mỗi chiều sau khi đi học về, Tùng đi bán mía ở bến đò Kiên Lương. Nó vô vườn mua rẻ mấy cụm mía về lóc vỏ, và chặt thành từng khúc nhỏ khoảng bằng đốt ngón tay. Xong rồi nó đi kiếm tre, gọt thành những cây nhỏ, mỗi đầu cây tẻ thành sáu nhánh nhỏ khác, vót nhọn, và gắn mía vào, vậy là thành một ghim. Mía ghim.
Nó không bán ở chợ vì ở đó đã có nhiều thằng nhỏ khác bán. Ra nghề sau nên Tùng phải chịu khó lặn lội ra tận bến đò. Tại đây cũng tấp nập không kém chi ở chợ, nhất là vào buổi chiều. Ghe thuyền là một trong những phương tiện giao thông chính của xứ Rạch Giá đầy mương rạch này. Khách hàng của Tùng phần đông là mấy bác xích lô, hay xe ba gác, hoặc những người từ thôn xóm chung quanh khi tan chợ trở về. Ngồi trên ghe gió chiều hiu hiu, có ghim mía nhai đỡ buồn miệng, khỏi phải lóc vỏ, bỏ cùi, mà giá lại rẻ mạt: có 50 xu. Nhai xong nhổ bã xuống rạch là xong, thật tiện.
Công việc làm ăn của Tùng tiến hành suông sẻ. Mỗi ngày nó kiếm được ít tiền đưa cho má để dành mua quà nuôi ba nó. Cuộc đời bán mía ghim của Tùng không biết sẽ kéo dài bao lâu, nếu một ngày nọ...
Hôm đó Tùng ế hàng. Bán từ chiều đến gần tối mịt rồi mà rổ mía vẫn còn vơi nửa. Điệu này hôm nay nó huề vốn là may. Đáng lẽ Tùng về nhà, nhưng nó vẫn ráng kiên nhẫn ở lại. Biết đâu còn nhiều người về bến đò trễ cũng nên. Đang thơ thẩn tìm khách, nó nghe gọi:
-Mía.
Tùng mừng húm thấy một thanh niên từ chiếc ghe lớn nãy giờ đậu im lìm dưới chân cầu đi ra.
-Mía bao nhiêu một xâu?
-Dạ 50 xu.
-Mày còn mấy xâu?
-Để coi. 1,2,3... 32 xâu.
-Tao mua hết, vị chi là 16 đồng phải không?
Đang mừng nghe nói được mua hết, Tùng khựng lại khi thấy anh thanh niên đưa tờ 100 còn mới toanh. Tiền đâu mà thối? Nãy giờ nó mới bán được có hai mươi mấy đồng, thêm mười đồng tiền lẻ má nó đưa để thối lại, cộng chung cũng chưa đến bốn chục. Tùng lúng túng:
-Anh có tiền lẻ cho em xin, em không có đủ tiền thối.
Hơi ngần ngừ một chút, anh thanh niên nói:
-Thôi cho mày luôn đó nhỏ.
Tùng tưởng mình nghe lầm, nó trợn mắt nhìn anh thanh niên, ông khách rộng lượng nhất trong cuộc đời bán mía mà nó đã gặp. Bỗng nhiên nó nhận thấy cái anh này sao lạ quá, nhứt định không phải là dân ở đây. Nhất là ảnh ốm và trắng, không giống dân bản xứ ở đây ai cũng nở nang và đen sạm. Nó chợt nghĩ đến những tin đồn mà nó đã nghe, không dằn được, buột miệng hỏi:
-Có phải anh ở Sài gòn xuống đây vượt biên không?
Người thanh niên tái mặt, anh quăng hết mấy xâu mía xuống sông và chụp lấy thằng Tùng, bụm miệng nó lại. Diễn biến xảy ra quá đột ngột nên Tùng không kịp phản ứng, chống cự một cách vô vọng, và bị người thanh niên vác xuống thuyền.
Tùng cố vùng vẫy thật kịch liệt, chân nó đạp tùm lum làm văng luôn một chiếc dép xuống sông. "Trời ơi, cha này định làm gì đây? Vượt biên thì cứ vượt biên. Tui có đi báo công an đâu mà bắt tui?" Nhưng nó chỉ ú ớ không thành lời.
Đem Tùng xuống khoang tàu và đóng cửa lại, người thanh niên cầm một cây sắt dí trước mặt Tùng, "ngồi im, làm ồn tao đập chết thả xuống sông". Tùng hoảng sợ thôi vùng vẫy. Thanh niên đè nó xuống sàn, và thả tay ra. Bây giờ Tùng mới hơi hoàn hồn chút đỉnh và đưa mắt nhìn quanh. Trời đất ơi! Cái khoang thuyền bé xíu mà đầy những người là người, già trẻ lớn bé, đàn ông lẫn đàn bà, hầu hết đều lạ hoắc từ đâu tới.
Một người đàn bà ngồi gần cất giọng hỏi:
-Thằng nhỏ nào vậy? Sao tự nhiên bắt nó?
Hùng, người thanh nhiên phân trần:
-Tui định mua ít mía mang theo, ai ngờ thằng này biết mình sắp "đi" nên phải đem nó xuống đây đó chứ, lỡ nó đi la tùm lum là bể hết, tù rã đám.
Tùng mếu máo:
-Em đâu biết gì đâu, thả em về đi anh ơi, hu hu!
Đám người vượt biên ngơ ngác nhìn nhau. Hùng lại lên tiếng:
-Mày không biết thực không?
-Thiệt mà, cho em về đi.
Anh Hùng quay sang nói với mấy người trong ghe:
-Coi bộ thằng này chỉ tình cờ thôi, nhưng vì an toàn, khi nào mình khởi hành mới thả nó ra được.
-Hu hu! Em về trễ má em đi kiếm.
Một người đàn bà khác lại dỗ nó:
-Thôi em chịu khó ngồi đây chút xíu, tí nữa anh Hùng cho em về nhà...Đây chị cho em một trăm mang về cho má.
Bà nhét vào túi áo nó tờ giấy bạc. Nếu ngày thường, có lẽ Tùng đã la lên su
ng sướng, bữa nay nó phát tài rồi. Nhưng không hiểu sao nó chỉ cảm thấy lo lắng, linh cảm điều gì bất thường.
Điều bất thường đã đến. Đang im lặng bỗng có tiếng gấp rút gõ cửa.
-Ai đó? Hùng hỏi.
-Tui, Tư đây Hùng, mở cửa mau.
Một người đàn ông ló đầu vào thở hổn hển:
-Lộ rồi, đám kia bị bắt hết và tụi du kích sắp đến đây đó, nhổ neo dông liền đi.
Cả khoang thuyền rúng động nghe tin dữ. Từng khuôn mặt hốt hoảng. "Chết cha, làm sao bây giờ?". "Lên bờ trốn". "Khổ thân tôi"... Mỗi người một câu, không ai còn nhớ đến Tùng đang ngồi một góc. Nó cũng lo lắng không kém. Lỡ tụi du kích tới đây thấy nó cùng đám vượt biên này thì mười cái miệng nói cũng không xuôi. Nó mà đi tù thì chỉ khổ cho má nó.
Anh Hùng hồi nãy cũng la lên:
-Bà con bình tĩnh. Bây giờ ai mà lên bờ là bị chôp liền. Đằng nào ghe cũng chuẩn bị rồi, ta đi luôn.
Vài tiếng hô lên đồng ý.
-Anh Hùng nói đúng, mình đi luôn may ra kịp.
-Một liều ba bảy cũng liều.
-Nhưng thằng em tui chưa tới mà?
-Thân ông lo chưa xong, còn lo ai? Muốn đi tù chung cho vui hả?
-...
-Vậy thì mình đi, Hùng lên tiếng. Ai lên phụ tôi kéo cái neo sau, còn anh Tư chuẩn bị lái.
Mọi người đã đồng lòng, chia nhau công việc để ghe có thể rời bến.
Lúc này thằng Tùng muốn trốn lên cũng không ai buồn để ý. Nhưng, có lẽ số phận đã an bài, cái số của nó phải sống xa gia đình nên Tùng cứ nằm yên run rẩy, nó cũng sợ đám du kích sắp đến như mấy người trên ghe. Tùng cảm thấy vừa mệt vừa đói, đầu óc choáng váng. Nó cảm thấy cái ghe chuyển động, tiếng lâm râm cầu nguyện của những người đàn bà trong khoang...và thiếp đi lúc nào không biết.
Thế là chiều hôm đó, trên chuyến tàu vượt biên vội vàng đã mang theo một hành khách không mong đợi: thằng bán mía ghim ở bến đò Kiên Lương.
Tàu đi được bốn ngày thì được tàu Mỹ vớt đưa vào bờ Mã Lai, và đến Pulau Bidong sau đó. Mọi người trên đảo ai nghe câu chuyện của Tùng cũng đều gật gù cho là...số mệnh, không ai có thể vượt biển một cách kỳ cục như thằng Tùng.
Hôm đó sau khi tỉnh dậy, nó cảm thấy khát đến khô cả cổ, bèn mò dậy kiếm nước uống. Anh Hùng thấy nó trước tiên trên boong.
-Cha chả, thằng bán mía, sao mày còn ở đây?
-Cho em miếng nước.
Hùng đưa cho nó ly nước. Uống xong, Tùng bắt đầu tỉnh trí và nhớ lại mọi việc.
-Trời ơi, mấy anh cho em về nhà chớ đi đâu đây?
Nó hốt hoảng nhìn chung quanh. Trời đã tối lắm rồi, có lẽ tàu chạy xuôi xẻ cũng được mấy tiếng và đang tiến dần ra cửa biển.Bốn bề chỉ thấy nước mênh mông. Xa xa một vài ánh đèn chập chờn từ những tàu đánh cá hay một trạm gác nào đó, leo lét. Thỉnh thoảng lại thấy vài cụm sậy thấp thoáng trong bóng đêm dày đặc.
Ba bốn người từ dưới khoang đi lên, họ cũng chợt nhớ ra thằng Tùng. Một bà ái ngại hỏi anh Tư lái tàu:
-Mình đi xa chưa? Hay là tấp lại chỗ nào cho thằng nhỏ lên rồi đi tiếp?
-Trời đất, bộ giỡn sao chớ? Tối um vầy biết đâu mà vô. Rồi lại tụi du kích nghe tiếng ra túm hết cả tàu thì bà tính sao đây?
-Nhưng mà cũng phải cho thằng nhỏ về nhà chứ.
Tùng thút thít năn nỉ:
-Không sao đâu chú ơi, chú cho tàu chạy vào gần bờ rồi cháu nhảy xuống bơi vô được mà.
-Nói thiệt với mày nghe nhỏ, không phải tao ác hay là gì hết. Nhưng mày là dân ở đây thì cũng biết, đằng kia toàn là rừng sậy không hà, mày bơi chưa tới là đã lún sình ngủm củ tẻo rồi. Mà tao cho ghe vô gần hơn thì cũng lún luôn, chết cả đám. Thôi mày đi theo tụi tao luôn đi. Được đi Mỹ "chùa" không tốn một cắc mà còn than gì nữa? Tao sợ má mày hay tin mày đi rồi bả còn mừng nữa à.
Thằng Tùng thất vọng nhìn chung quanh. Nó biết chú Tư nói thiệt. Nó bơi như rái cũng khó qua nổi mấy vũng lầy trước khi vào đất liền. Tùng ngồi xuống ôm mặt tấm tức, tự xỉ vả mình ham tiền ở lại trễ tại bến đò làm chi cho bị... tai bay vạ gió như vầy...
Vậy mà trong ghe, Tùng lại được đi định cư sớm nhất. Nó ở đâu có 3,4 tháng thì được hội nhà thờ bảo lãnh sang làm con nuôi của ông bà John và Linda, một cặp vợ chồng Mỹ không con cái.
Mấy tuần đầu ở đảo, Tùng nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ thằng Tính em nó và khóc hoài. Nó giận tất cả mọi người trong ghe đã ép uổng nó đi theo.
Chuyến ghe nó đi thật thuận buồm xuôi gió, không hải tặc, không đói khát. Mấy người lớn tuổi nói trong ghe có "quí nhân" đi theo nên được tai qua nạn khỏi. Và họ bảo nhau quí nhân đó chính là thằng Tùng. Đâu có ai vượt biên một cách bất ngờ như nó đâu. Hồi đó hải tặc lộng hành, ít có ghe tị nạn nào thoát khỏi, vậy mà ghe nó đi êm ru. Vì vậy ai cũng thương và tử tế với nó, họ chia nhau an ủi và nuôi nấng Tùng trong suốt thời gian ở trại vì nó không có ai thân nhân ở nước ngoài cả.
Đêm trước khi Tùng lên đường, mọi người mở tiệc tiễn "quí nhân". Mỗi người một lời khuyên nhủ làm Tùng cảm động quên hết giận hờn. họ nói riết, Tùng cũng tin là tại số phận của nó phải như vậy. Đây là ý của Trời Phật muốn giúp nó ra nước ngoài ăn học để một mai thành tài giúp đỡ cha mẹ lúc tuổi già. Cuộc sống bon chen lúc còn bán mía ở bến đò Kiên Lương và biến cố vừa qua đã làm cho trí óc Tùng tiến một bước dài.
Trước khi từ giã, anh Hùng, người đã bắt nó xuống tàu hôm nọ nắm tay nó xem bói. Anh vỗ tay xuống bàn, la lên:
-Trời ơi, bà con coi bàn tay thằng này nè. Cái đường xuất ngoại của nó dài và rõ như vầy thì đúng là số của nó phải đi du học rồi. Nói thiệt, nếu hôm dó tui không nắm cổ nó kéo xuống ghe thì cũng có người khác làm mờ.
°°°
Bốn tháng sau khi đến Mỹ, Tùng nhận được lá thư đầu tiên của má nó từ Việt nam gởi sang. Còn gì mừng hơn được nhìn lại nét chữ của người mẹ thân thương từ quê nhà. Nó ngấu nghiến đọc đến thuộc lòng cả lá thư mà vẫn cứ đọc. Lại có cả thư của thằng Tính nữa chứ, em nó viết: "Em là Tính em của anh nè anh Tùng, anh còn nhớ em hôn? “ Tùng đang khóc cũng suýt bật cười đọc dòng chữ ngây thơ trên. "...Ba có viết thơ về nói bị đau bao tử mà má không có tiền mua thuốc. Em muốn đi bán mía như anh nhưng má không cho, má sợ em cũng bị bắt đi Mỹ luôn má ở nhà một mình buồn. Anh ráng đi làm như anh con Hà rồi gởi thuốc về cho ba nghe. Mà anh cũng nhớ mua cho em cái xe lửa điện như của con Hà vậy nghe, em ở nhà một mình buồn quá. Nhớ nhe anh Tùng..."
Dòng chữ ngây thơ của em nó làm Tùng khắc khoải. Ba nó đang bệnh trong tù, mà thuốc Tây ở chợ trời thì Tùng dư biết là mắc lắm, làm sao mua nổi? Chưa kể má nó thiệt thà có khi còn mua nhầm thuốc giả nữa. Còn cái xe lửa điện. Tùng nhớ hồi ở Rạch giá mỗi lần nhìn chị em con Hà gần nhà chơi cái xe lửa điện của anh tụi nó từ ngoại quốc gởi về mà mơ ước cũng có một cái, nhất là thằng Tính, mê cái xe lửa kinh khủng. Tùng chìu em, vác cuốc đi đào đủ một lon sữa bò đầy giun để con Hà cho gà ăn thì nó mới cho chơi chung. Đến bây giờ em nó vẫn còn mơ ước cái xe lửa.
Tùng muốn xin tiền bố mẹ nuôi để nó mua đồ, nhưng lại không dám. Ông bà John và Linda thương nó như con ruột, chăm lo cho nó ăn học đầy đủ, nên nó không muốn xin thêm điều gì làm phiền ông bà. Tùng quyết định đi làm để tự mình kiếm tiền. Mà làm gì bây giờ nhỉ? Bán mía như ở Việt Nam ư? Mỹ họ đâu có ăn mía ghim. Mía họ đóng hộp để lạnh, khi nào ăn thì khui ra là xong. Tùng đâu thấy thằng Mỹ con nào bán mía ngoài đường.
May sao thằng Tâm bạn chung lớp chỉ nó gia nhập làng bán báo. Gì chứ bán báo ở Mỹ dễ ợt, người ta đặt mua hàng tháng, bọn nó chỉ đem bỏ từng nhà là xong. Và Tùng đi bỏ báo.
Hôm qua mới được lãnh lương nên sáng nay nó và thằng Tâm rủ nhau nghỉ học để mua đồ. Đã lỡ giấu bố mẹ nuôi từ đầu nên Tùng phải nhờ thằng Tâm chỉ dẫn. Thằng này qua đây đã lâu mà lại thường theo anh chị nó sắm đồ nên rất rành đường xá. Đầu tiên, hai thằng đến tiệm thuốc tây Việt Nam có bán loại thùng thuốc đóng sẵn. Tùng nhờ người bán hàng chỉ loại thùng có thuốc trị bao tử để gởi về. Xong xuôi cả hai lại đáp xe bus tới mấy tiệm bán đồ chơi để Tùng tìm mua cái xe lửa điện cho em nó. Lang thang mãi rồi Tùng cũng kiếm được cái vừa ý, và nhất là hợp với túi tiền nhỏ nhoi của nó.
Có điều thằng Tùng chưa rõ là nhà trường Mỹ không giống như ở Việt Nam. Trước kia nó có trốn học đi coi đá banh, hay tắm sông với bạn bè mấy ngày cũng không ai để ý. Nhưng ở Mỹ, con nít thường được chú ý, cho nên khi cô giáo buổi sáng thấy Tùng vắng mặt không xin phép đã gọi điện thoại về nhà. Câu chuyện đổ bể...
Ông John và bà Linda im lặng nhìn nhau. Họ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đứa con nuôi của họ chỉ mười mấy tuổi đầu đã trải qua bao lận đận, và cuộc đời của nó thật hi hữu. Đây hẳn là ý Chúa. Chúa đã mang thằng nhỏ đầy tình nghĩa trong trái tim son trẻ kia về đặt trong sự thương yêu của hai người để giúp nó được lớn lên trong một xã hội tự do, bác ái, và để cho nó có cơ hội giúp đỡ cha mẹ nó tận bên kia Thái Bình Dương.
Bà Linda ôm Tùng trong lòng, bà cũng khóc tự hồi nào.
-Ôi, con yêu dấu của mẹ. Cha mẹ không trách con nữa. Con thật là một đứa con ngoan.
°°°
Lúc bà nội Tùng còn sống, nó thường nghe bà kể chuyện ông lão ăn mày nghèo khổ, một đêm trong miếu cổ nằm mộng thấy mình trở thành quan Tể tướng, giàu sang quyền quí, sống cuộc đời cực kỳ hạnh phúc. Giật mình tỉnh dậy trời chưa sáng, tất cả đều hết, ông lại là kẻ ăn mày nghèo khó giữa đêm tối âm u...
Tùng mong mình cũng như lão ăn mày nọ. Tất cả chỉ là một giấc mơ. Nó ước ao một sáng thức dậy, thấy mình vẫn còn nằm trên chiếc giường tre ở quê nhà, nghe tiếng gà gáy, tiếng lục đục của má nó sửa soạn ra chợ. Thấy chân thằng Tính gác trên bụng và hơi thở phì phò trên má... Cho đến khi cảm giác êm ái của chiếc giường nệm và cái lạnh cuối năm của xứ người đưa nó về thực tại. Có những đêm Tùng nằm mơ thấy mình trở về Rạch Giá, lang thang trên bến đò với rổ mía, gặp lại ba má, bạn bè, để rồi tỉnh dậy trong tiếc nuối ngẩn ngơ.
Đêm nay Tùng lại nằm mơ thấy mình về Việt Nam. Giấc mơ kỳ lạ. Nó thấy "Dad" John lái xe chở nó và "Mom" Linda chạy trên xa lộ Mỹ, vậy mà khi ổng quẹo vào exit là đã tới...Rạch Giá môt cách ngon lành. Tùng vào nhà gặp má nó, thằng Tính, và điều mừng rỡ nhất là có cả ba nó nữa. Ông hết ở tù rồi. Tùng khệ nệ khiêng thùng quà mà nó dành dụm từ mấy tháng nay vào cho má nó. Nào vải, nào thuốc... và dĩ nhiên có cả cái xe lửa điện cho thằng Tính nữa. Rồi trong khi má nó và "Mom" làm cá rô kho tiêu trong bếp, "Dad" John và ba nó ngồi nhậu thật tương đắc. Ngoài sân, thằng Tính lui cui chơi cái xe lửa, thỉnh thoảng khoái chí cười nắc nẻ.
Tùng cảm thấy mình thật hạnh phúc. Nó đã có ba má, rồi lại có cả "Dad" và "Mom" nữa, tất cả đều yêu thương nó. Ô hay, ai nói Việt Nam và Mỹ xa lắm cả một đại dương chứ với Tùng, nó thấy thật gần gũi, nhất là trong những giấc mơ như vầy.

ThaiNC
Back to top
« Last Edit: 11. Mar 2014 , 12:05 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #8 - 12. Mar 2014 , 17:14
 
TÔ CANH THƠM CỦA MẠ


***

Chỉ mới đôi năm trước đây thôi, mạ tôi vẫn còn khỏe và năng động lắm. Tuy đã lớn tuổi, nhưng bà vẫn tự nấu lấy thức ăn cho mình. Anh em tôi e ngại sợ mạ tay yếu đổ nước phỏng tay, hay sợ bà quên tắt bếp, lửa củi nguy hiểm…nhưng nói mấy cũng vô ích. Mạ viện lý do thức ăn tụi tôi nấu không hợp khẩu vị, và nhất là bà cần làm việc để qua thì giờ và cũng để vận động chân tay luôn thể. Thấy bà nói có lý nên tụi tôi cũng đành chiều ý. Thôi kệ, tới đâu hay tới đó. Vậy đó mà mạ tôi đã nấu ăn một cách ngon lành. Chẳng những bà nấu cho bà, mà cả lũ con cháu nội ngoại còn được hưởng lây nữa.
Hình như ít có lần nào sau khi đã gởi cháu cho Bà trông, đến đón về mà tôi không được mạ bới cho một chút đồ ăn mang theo. Và món mà bà thường làm cho tôi nhiều nhứt là món canh thơm. Bà biết đây là món mà tôi rất thích.
Kể cũng lạ. Những lần mang tô canh thơm về là tôi hầu như một mình làm trọn. Hai đứa con không ăn đã đành, mà cả Hương vợ tôi cũng chỉ sơ sơ vài muỗng góp vui vậy thôi, còn lại là tôi quét sạch không chừa một cọng hành. Tôi xì- xà xì- xụp ăn tô canh như ngày mai sẽ tận thế không bằng.
Thấy tôi thích món này như vậy, nên khoảng hai ba tuần mà không thấy tôi mang từ bà nội về là vợ tôi lục đục nấu. Tưởng cũng nói thêm vợ tôi có biệt tài học nấu ăn. Nàng vô nhà hàng hoặc đi ăn ở đâu gặp món đắc ý, chỉ cần khươi đĩa đồ ăn coi sơ sơ là có thể về nhà nấu giống y chang. Cho nên với tô canh thơm đơn giản này là quá dễ dàng. Hôm tôi thấy tô canh thơm dọn lên bàn, ngạc nhiên quá tưởng là mạ tôi nấu nhờ người khác mang qua. Nhưng Hương nói nàng mới nấu theo kiểu của Bà nội. Tôi thích vô cùng, ngồi xuống chén thả giàn. Ăn xong vợ hỏi “ ngon không"” “Ngon chứ”. Vợ hỏi tiếp “ Có ngon như bà nội nấu không” Tôi thành thực trả lời “Ngon, nhưng mà hình như hơi khác với cách Bà nội nấu” Vợ tôi nói mới nấu lần đầu nên chưa chỉnh. Lần sau chắc chắn sẽ giống.
Lần sau nữa, tô canh thơm của vợ tôi nấu thành thật mà nói thì chẳng những giống mà có lẽ còn đậm đà và thơm ngon hơn tô canh của mạ tôi. Tôi ăn cũng ngon lành lắm. Thế nhưng, dù vợ tôi có nấu cách nào đi nữa cũng không thể nào giống như tô canh của mạ. Canh thơm của vợ nấu thì tôi ăn bình thường cùng những món ăn khác. Nhưng khi ăn tô canh của mạ tôi nấu, đặc biệt trọn một bữa cơm tôi chỉ ăn một món này mà thôi như là sợ mấy món kia sẽ làm tô canh của tôi bớt ngon. Tôi vừa ăn vừa sợ như nó sẽ…hết. Và khi nó hết, tôi vét đến cọng ngò cuối cùng. Ăn xong mà vẫn thòm thèm thật tức cười. Cả hai đứa tôi cùng nhận thấy điều này. Lạ!
Cho đến một hôm…
Vào dịp lễ Thanks Giving, lớp học con gái tôi tổ chức một buổi pot-luck ăn trưa. Mỗi phụ huynh tham dự mang một món ăn tới góp vốn ăn chung. Tôi mua mang theo món mì xào từ một tiệm mì nổi tiếng và tôi biết rất ngon. Tới giờ ăn, các phụ huynh phải phục vụ cho các em ăn trước. Món mì của tôi được tất cả ủng hộ nhiệt liệt trừ một cậu bé có vẻ là người Tàu hay Phi gì đó. Khi tôi mang đĩa mì tới, nó thờ ơ lạnh nhạt nói “Không ăn”. Hừm, làm bộ dữ. Chắc là nó không đói. Nhưng tôi vẫn cố dụ “Ăn đi cháu, mì ngon lắm” Cậu vẫn một mực: “Không ăn. Mì má cháu làm ngon hơn nhiều” A, thằng này làm phách nhỉ, dám nói là mì má nó làm ngon hơn ở tiệm, mặc dù là chưa thử qua sợi nào.
Ðúng lúc đó mẹ của cậu cũng vừa tới bàn. Bà giở nắp hộp đồ ăn của cậu ra thì quả nhiên là…một hộp mì xào. Tôi tò mò nhấn nhá đứng gần hai mẹ con để coi món mì gì đặc biệt mà cậu con quảng cáo dữ dội quá. Khi tôi nhìn thấy tô mì rồi thì thật là…thất vọng đến não nề. Trời ơi, tưởng là có gì ghê gớm lắm, té ra là những cọng mì trắng nhách, nhạt nhẽo, thêm chút trứng chiên thái mỏng rải ở trên, và chan xì dầu. Chỉ vậy thôi mà cậu làm như là sơn hào hải vị đâu đâu không bằng. Tôi bị chạm tự ái quá đi. Nó dám chê mì mua ở nhà hàng của tôi để ăn cái tô mì trông thiệt là …dở ẹt này. Cho nên tôi vẫn tiếp tục nhấn nhá đứng gần để coi thử.
Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cậu bé mắt sáng rỡ khi mì của cậu được mẹ xúc ra chén. Kỳ thật. Ðĩa mì tôi mang tới sợi vàng óng ánh hấp dẫn, lại thêm tôm, xá xíu, rau cải đầy đủ, ngon lành thì cậu không thèm ngó tới, trong khi mì của mẹ cậu thì lưa thưa vài miếng trứng với xì dầu mà cậu làm như bắt được vàng. Chưa hết, nhìn cái dáng điệu cậu ăn mới đã. Cậu ngồi sát vào mẹ như một con gà con. Tay trái cậu cầm muỗng, tay phải đôi đũa, cả hai tay phối hợp nhịp nhàng. Trước hết cậu gom mì thành một cụm nhỏ vừa đủ một miếng, dồn thêm vài sợi trứng, xong rồi cả muỗng lẫn đũa khiêng cụm mì lên ngoạm một miếng vô miệng gọn lỏn. Nói thì lâu chứ cậu ta làm lẹ lắm. Cụm mì mới vào miệng đang nhai là đôi tay đã thực hiện lại động tác gom mì lại như cũ của một chu kỳ nhứt định. Cứ thế cậu không để phí một giây nào. Ngay cả một vài cọng mì dính bên mép cậu cũng không thèm chùi. Chỉ thỉnh thoảng cậu phải ngưng lại chút để thở, và để cho mẹ chùi mép dùm, trong khi cậu nhìn mẹ cười…say đắm. Ôi trên đời này sao lại có thằng con nào sung sướng, hạnh phúc đến như vậy cà.
Cậu lại tiếp tục ăn, thì thà thì thụp. Thấy nó ăn mì mà tôi cảm thấy đói bụng và thèm quá đi, thiếu điều muốn nói với nó rằng “ Mày cho tao thử một miếng, được không?”
Chẳng mấy chốc mà tô mì gần hết, cậu ăn chậm lại. Nhưng cậu ăn chậm không phải vì no. Cứ nhìn cái miệng nhỏ nhắn nhai ngấu nghiến thì biết. Cậu sợ hết. Như thể cậu muốn ăn hoài ăn hủy miễn là có mẹ ngồi bên cạnh.
Rồi thì tô mì xào của cậu cũng phải hết. Tôi thấy nó nhai miếng cuối cùng thật lâu, và khi đã bỏ đũa xuống rồi cũng còn dùng tay vét mấy cọng hành nhét vào miệng một cách tự nhiên. Bà mẹ ngồi bên cạnh không cản mà chỉ nhìn tôi cười bẽn lẽn để tôi thông cảm cho thằng con háu ăn.
Tôi thẫn thờ nhìn hai mẹ con và chợt hiểu.
Hành động vét mấy cọng hành cuối cùng của cậu bé sau khi đã làm sạch sẽ tô mì làm tôi nhớ những lúc tôi vét mấy cọng ngò cuối cùng của tô canh thơm do mạ tôi nấu. Tôi nhớ lại hồi nãy thằng con ăn mì say sưa và thỉnh thoảng nó nhìn mẹ nó một cách trìu mến như thể nếu được nó cũng ăn luôn mẹ nó vào bụng. Và tôi nhớ lại lúc ăn canh thơm của mạ, tôi có một cảm giác man mác, êm đềm mà không hiểu vì đâu. Tô mì của cậu bé chắc chắn là không bằng mì tôi mua ở tiệm, cũng như canh thơm của mạ tôi chắc cũng không đậm đà, ngon ngọt như vợ nấu. Nhưng mà cả hai đã được nêm vào một gia vị trân quí nhất trên đời: Gia vị MẸ.
Khi ăn canh của mạ nấu, thì ra tôi đã nuốt vào người tất cả tình thương của mạ gởi gắm trong tô canh. Tôi đã vào cái tuổi mà người ta gọi là tri thiên mệnh. Trên đầu tóc muối như tiêu. Nhưng với mạ thì tôi bao giờ cũng chỉ là một thằng con nhỏ dại mà bà khi nào cũng muốn chiều chuộng chăm sóc. Tôi chợt nhận ra rằng mỗi tô canh của mạ không những đã được nêm đầy gia vị MẸ trong đó, mà nó còn chan chứa cả một quãng đời niên thiếu của tôi. Tôi đã ăn canh như một con bò già ngấu nghiến nhai lại quãng tuổi ấu thơ mà nuối tiếc những chuỗi ngày vẫn còn trong vòng tay của mạ.
*****

Nhưng mà gần đây mạ tôi đã không nấu nướng gì được nữa. Mạ yếu như một ngọn đèn dầu gần cạn, hiu hắt chờ một cơn gió lớn.
Bây giờ, ngoại trừ những lúc cần phải đi đứng chút đỉnh làm vệ sinh hay uống thuốc, còn thì mạ chỉ nằm trên giường. Trời nắng ấm mùa Xuân, mạ đắp mền từ cổ tới chân mà vẫn than lạnh. Những chuyện hôm qua thì mạ quên tuốt, nhưng mà chuyện năm sáu chục năm trước thì mạ tôi nhớ rõ mồn một và cứ nhắc tới nhắc lui dăm ba câu chuyện đó. Mạ kể đi kể lại chuyện thời bà còn con gái mười ba mười bốn tuổi đã tự lập mưu sinh với giỏ hàng xén nhỏ nhoi bày bán ở chợ ÐÔNG BA ngoài Huế. Có ông Cố Ðạo người Pháp dạy học ở đâu đó không biết, mỗi vài tháng lại ra chợ sắm giấy, bút, mực… chỉ ở gánh hàng nhỏ xíu của mạ, chứ không bao giờ mua ở những cửa tiệm lớn hơn. Lý do vì mạ tôi là người duy nhất trong khu chợ biết nói bặp bẹ dăm câu tiếng Pháp với ông. Anh em tôi ngạc nhiên hỏi mạ học tiếng Pháp ở trường nào. Bà nói trường nào mà trường. Nhà nghèo cơm ngày ba bữa đủ ăn là may rồi, con gái thời đó như mạ làm sao được tới trường. Mạ chỉ học lóm tiếng Pháp từ mấy cậu trong nhà mà thôi. Tụi tôi nể mạ quá xá.

Mạ ngày càng lãng hơn. Một lần tôi ngồi bên, mạ lại bắt đầu kể một chuyện đời xửa đời xưa nào đó của bà mà tôi đã nghe ít nhất một chục lần và đã thuộc lòng. Không hiểu sao bữa đó tôi vô tình quá. Mạ mới nói vài câu là tôi ngắt lời bà, nói là mình đã biết rồi, mạ khỏi cần kể nữa. Và để chứng minh, tôi kể tiếp cho mạ khúc tiếp theo để mạ tin là tôi đã biết. Tôi thấy mạ mặt buồn xo, hụt hẫng. Mạ ậm à ậm ừ cố nghĩ một chuyện khác để kể cho tôi nghe thế câu chuyện trên, nhưng luồng tư tưởng quen thuộc của mạ lúc đó bị tôi ngắt bất ngờ nên chưa sắp xếp lại kịp chuyện khác. Mạ chỉ muốn nói để mà nói, và có người ngồi cạnh bên nghe mà thôi. Tôi hối hận quá. Thấy mạ mấp máy môi, ấp a ấp úng hoài nhưng nghĩ chưa ra thiệt là tội nghiệp. May lúc đó tôi nghĩ là phải mớm lời cho mạ nên giả bộ hỏi “ Hồi mạ còn nhỏ, mạ bán gì ở chợ Ðông Ba vậy? " Thế là mạ bắt được đà, bà bèn kể tiếp cho tôi nghe chuyện ông Cố Ðạo người Pháp mỗi vài tháng ra mua hàng của mạ. Lần này thì tôi nghe một cách thiệt tình, thỉnh thoảng còn bàn thêm vài điều bên lề nữa khiến mạ thích vô cùng.
Ban đầu thì tôi nghe để cho mạ vui. Nhưng càng về sau, tôi thấy như mình cũng có những lúc sống hòa vào với thế giới của mạ. Mạ mới nhắc đến giỏ hàng xén tạp hóa là tôi như thấy cả cái chợ ÐÔNG BA trước mặt mình với rừng người tấp nập, có một cô bé mười bốn mười lăm tuổi gói hàng bán cho một ông Cố râu ria xồm xoàm, áo đen thụng thịnh, tóc trắng toát, cố gắng lắng nghe để hiểu mớ tiếng Pháp chắp vá của cô hàng xén nhỏ tuổi. Thỉnh thoảng ông cười to thích thú vì cô hàng xén xinh xinh này nói tiếng Tây thiệt là…tức cười và dễ thương. Cô không biết. Cô tưởng là ông Tây cười khen cô nói hay, nên cô cố nói thêm càng nhiều càng tốt. Và vì vậy mà ông Cố Tây lại càng cười thêm…

Mạ tôi cũng kể cho tôi nghe rằng hồi 9, 10 tuổi gì đó tôi đau một trận kinh hồn. Giữa đêm khuya, tôi nóng sốt đến độ máu cam từ mũi chảy ra như suối. Mạ tôi đã dùng hết khăn trong nhà mà vẫn chưa đủ cho tôi lau. Tôi mất nhiều máu quá đến nỗi đã bắt đầu mê man rồi. Lúc đó nhà tôi mới từ Huế dọn vào. Ba tôi vắng nhà đi làm xa. Lạ nước lạ cái, nhà thương bệnh viện ở đâu không biết, hàng xóm neo đơn, mà lại đêm khuya khuắt biết kêu nhờ ai! Mạ tôi chỉ còn ôm tôi vào lòng và cầu nguyện. Lúc đó bà nghe như có tiếng nạng gỗ gõ lên sàn nhà, tiếp theo là tiếng dép kéo lê. Rõ ràng là có một người què đang đi trong nhà. Nhưng mạ đã quá mệt mỏi và cũng đang thiếp đi. Rồi bà thấy rõ ràng, không hiểu là thiệt hay trong giấc mơ, một người lính chống nạng gỗ đi đến và sờ vào trán tôi, xong rồi ông ta lại kéo nạng đi ra khỏi nhà. Sáng hôm sau, như một phép nhiệm mầu nào mà tôi bớt hẳn, gần như đã hết bệnh mặc dù là chưa uống một viên thuốc nào cả.
Tôi vốn là một thằng bé ham chơi thuở ấy nên đã gây cho mạ không ít nhọc nhằn. Hình như không có một môn chơi nào của con nít trong xóm mà thiếu mặt tôi, từ đánh đáo ăn tiền, đến bắn bi, tạt hình, chọi lính…món nào tôi cũng một cây xanh rờn. Mạ tôi lo tôi ham chơi mất sức rồi bỏ học nên cố kềm bằng cách bắt tôi mỗi trưa phải… đi ngủ. Dĩ nhiên là tôi chỉ nằm trình diễn thôi, đợi cho mạ ngủ là tôi rón rén dậy xách đồ nghề dông một mạch vào xóm chơi. Tỉnh dậy không thấy thằng con đâu, mạ tôi lại phải đội nắng đi vào xóm kiếm. Bà biết đích xác chỗ nào tôi thường đàn đúm. Có những lần tôi đang lom khom cúi nhắm mấy hòn bi dưới đất để bắn thì bỗng thấy đôi dép quen thuộc ngay trước mặt. Khỏi cần nhìn lên tôi cũng đủ biết là ai, bèn ba chân bốn cẳng chạy ù về nhà. Tôi phải về trước mạ, lấy cái khăn hay cái áo nào đó chêm sau mông. Mạ có cái roi đánh đau lắm nên tôi phải lo độn trước kẻo không là …thê thảm. Rồi mạ về tới, bắt tôi nằm xuống nã cho mấy roi. Chẳng đau gì cả nhưng tôi cũng giả bộ la “ui- da ui- da” rối rít. Mạ thấy tội bèn cho… thiếu nợ, chỉ dọa lần sau tái phạm sẽ trả gấp đôi. Tôi nào ngán, vì đã có áo giáp hộ thân, và hơn nữa mạ đâu có nhớ. Tôi chỉ thắc mắc một điều là sao mạ không nhận ra sự khác nhau. Khi tôi chưa kịp độn áo sau mông, roi đụng vào thịt thì nó kêu “ bép- bép”; còn khi nào tôi đã kịp độn áo rồi thì nó kêu “ phộp- phộp” rõ ràng như vậy mà mạ không biết nên tôi mặc tình mà lờn mặt.
“Bí mật” này tôi vẫn giữ kín gần 40 năm, cho tới khi mới chỉ gần đây thôi. Trong một dịp họp mặt gia đình anh em, con cháu đầy đủ, tôi bèn “ bật mí ” lên để chọc mạ cho vui, ai ngờ mạ phản pháo “ Thằng khỉ. Mi tưởng tau ngu không biết mi chêm cái chi đó trong quần hay răng. Tau cố tình lờ cho mi đó chứ!” Cả nhà tôi cười như nước vỡ bờ, và thằng con tôi là to họng nhất. Nó khoái quá, hả hê khen “ Bà nội thông minh quá, smart quá. Ba là ‘bad boy’ đó bà nội ơi!” Ha ha. Bà nội có hiểu bad boy là gì đâu, mày ơi!
*****

Một buổi chiều đi làm về, tôi ghé lại để nghe mạ kể chuyện, nhưng bà đang ngủ. Tôi kéo ghế cạnh giường ngồi nhìn mạ.

Ðã từ lâu tôi biết là bà không khoẻ, nhưng vẫn nghĩ rằng ai cũng bệnh già thế thôi. Bữa nay tôi mới có dịp ngắm lại mạ lúc bà đang ngủ. Hơi thở của bà sao mệt nhọc quá, khò khè và đứt quãng. Mạ ngủ mà phải há miệng ra để thở và tôi thấy răng của mạ chỉ còn vài cái loe hoe, lủng lẳng! Nhưng điều làm tim tôi nhói lên khi mạ chìa cánh tay ra khỏi mền. Ôi cánh tay của mạ tôi đâu còn là tay nữa mà chỉ là một thanh củi khô, da bọc lấy xương. Lớp da đồi mồi ở ngay bả tay không còn miếng thịt nào để bao bọc nên nó nhẽo nhẹt và lòng thòng một cách thảm thương. Tôi nghe mạ than là khó thở, nhưng không ngờ mạ phải thở một cách khó nhọc như vậy. Tôi biết là mạ ốm, nhưng không ngờ mạ ốm đến giơ xương. Tôi không nỡ nhìn mạ lâu hơn, phải bước vội ra ngoài tới bàn thờ Phật để ổn định lại tâm hồn.
Trước bàn thờ Phật. Tượng Phật Bà Quan Âm với bình nước Cam Lồ hiền từ nhìn. Bỗng nhiên tôi cảm thấy như có một sự thiêng liêng nào đó phảng phất trong không gian. Một cảm giác lâng lâng khó tả. Tôi thắp một nén nhang và khấn thầm “Thưa Phật. Trước hết con biết tuy là Phật tử, nhưng con không phải là một Phật tử thuần thành được thấm nhuần Phật pháp. Vì vậy mà giáo lý của đức Phật nhiều khi con hiểu chưa thực chính xác, nên nếu con nói có gì không đúng thì đành vậy. Con vẫn thường nghe nói về luật nhân quả của đạo Phật. Nhân nào thì quả nấy. Làm hiền gặp lành và làm ác gặp ác. Bao nhiêu năm qua con nghĩ là mình đã làm nhiều việc thiện. Và con chưa bao giờ mong việc mình làm sẽ mang lại một nhân quả tốt nào cho chính con cả. Nhưng bây giờ nếu đức Phật vì những nhân lành mà con đã gieo, và sẽ cho con những quả tốt như một sự đền bù thì con xin nhận. Không phải cho con, mà cho mạ con. Thưa Phật. Con biết rằng con người sinh ra thì ai cũng đều mang một số mệnh. Ai rồi cũng sẽ đi qua đọan đường sinh, lão, bệnh, tử. Vì vậy mà con không dám cầu cho mạ con sống lâu trăm tuổi. Bởi vì cầu cũng không được. Con chỉ xin cho mạ con được sức khoẻ và sự an nhiên trong quãng đời còn lại là con mãn nguyện lắm rồi. Một mai khi nợ trần đã dứt, xin Phật đón mạ con về trong sự bình yên. Chỉ vậy thôi.”

Có tiếng mạ kêu trong phòng. Tôi đi vội vào kẻo mạ trông và lòng thầm nghĩ không biết bữa nay mạ sẽ kể cho nghe chuyện gì nhỉ. Chuyện ông Cố đạo, hay là chuyện ông lính chống nạng giữa đêm, hay là chuyện… chuyện gì cũng được. Bây giờ thì mạ còn nói, tôi còn được nghe là cũng may mắn, hạnh phúc rồi. Tôi biết là mạ không còn như xưa để thỉnh thoảng nấu canh thơm cho tôi nữa, nhưng cái gia vị MẸ tuyệt vời đó nào phải vì vậy mà mất đi đâu. Nó vẫn đậm đà và nồng ấm qua từng giọng nói, từng cái nhìn của mạ đó mà. Như hôm kia tôi đến ngồi cạnh bên. Mạ nhìn lên đầu tôi thật lâu, rồi nói giọng lo lắng “Con bịnh chi mà tóc bạc nhiều ri?”

*****

À ơi…
Mẹ già thì như chuối chín cây. Gió lay mẹ rụng con thành mồ côi....
Gió lay mẹ rụng, tôi gọi là Gió Mồ Côi. Ðể rồi một hôm…

Một hôm ngọn gió mồ côi
Thổi cho mạ rụng để tôi một mình
Mạ về nước Phật thanh bình
Trần ai để lại chút tình mạ con
Canh thơm ai nấu mà ngon
Bây giờ canh hết con còn chén không
.

ThaiNC

Gió lay mẹ rụng con thành mồ côi....
  Xin gởi đến những ai không còn Mẹ ,như 1 nhắc nhở, Mẹ hiền luôn ở trong ta. 
Back to top
« Last Edit: 12. Mar 2014 , 17:14 by Tuyet Lan »  
 
IP Logged
 
tuy-van
Gold Member
*****
Offline


Thành viên xuất sắc
2015

Posts: 10734
Thung lủng hoa vàng
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #9 - 13. Mar 2014 , 11:12
 
...

   Bạn hiền TL khoẻ hẳn chưa? Hy vọng bạn mau hồi phục và cám ơn đà tặng những bài viết dể thương , như tình Mẹ con.
   TvMs
Back to top
 

hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
hoahong.gif Have a great dayhoahong.gif
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #10 - 16. Mar 2014 , 15:11
 


Tường vi cánh mỏng


Đó là một ngày mưa tầm tã. Cô giáo chủ nhiệm bước vào lớp, thông báo bằng giọng đều đều, không cảm xúc:
Cô vừa nhận được tin từ gia đình bạn Tường Vi. Bạn ấy đã mất tối qua! Hôm nay lớp ta được nghỉ một hôm để tham dự đám tang.
Nối sau câu nói ấy là sự im lặng kinh hoảng. Tiếng mưa ầm ầm ngoài cửa dường như đã nuốt sạch mọi âm thanh.
Không có quá nhiều điều để nói về Tường Vi, cũng như không đủ đau buồn để khóc thương cho người ra đi. Nhất là khi chúng tôi mới học cùng nhau chưa được ba tháng. Tường Vi mới chuyển vào lớp tôi hồi đầu năm học. Cô bạn có nước da bánh mật, khuôn mặt tròn trịa, thân hình quá khổ, luôn lầm lì, khép kín và đôi lúc cộc cằn. Có lẽ vì thế mà Tường Vi trở thành đối tượng của rất nhiều trò đùa quái ác. Chỉ trong vòng hai năm đã chuyển trường ba lần. Rất tự nhiên, cô bạn mới được phân đến ngồi cạnh tôi. Chẳng có gì lạ lùng, từ lâu rồi tôi được biết đến như chàng trai tuyệt vời nhất khối 11.
Ngoại hình khá, biết cách ăn mặc, thành tích học tập tốt và luôn vui vẻ lịch lãm. Chẳng biết từ lúc nào, tôi coi những ánh mắt ngưỡng mộ của mọi người là thứ không thể thiếu trong cuộc sống của mình. Tôi luôn chú ý giữ hình tượng của một anh chàng hòa nhã, dù có chuyện khó chịu hay bực bội cũng cố dằn xuống mà mỉm cười.
Làm thân với Tường Vi không có gì là khó cả. Giữa những cậu bạn thô lỗ, tinh quái luôn trêu chọc miệt thị, sự ân cần quan tâm của tôi nhanh chóng chiếm được cảm tình của cô bạn khó gần. Khi những cô nàng khác lên tiếng phàn nàn bởi tôi giành sự quan tâm cho “vịt con xấu xí” thì tôi chỉ cười trừ, tuôn ra vài lời mềm dẻo tốt đẹp, thành công tăng thêm sự ngưỡng mộ cho bản thân. Thêm một thời gian nữa, tình cảm Tường Vi dành cho tôi tự nhiên phát triển. Chuyện này với tôi vốn chẳng hiếm lạ gì nhưng rơi vào Tường vi lại mang đến sự khó chịu kỳ lạ. Không có cô bạn nào lúc nào cũng nhìn tôi chằm chằm một cách lộ liễu như vậy. Cũng không có cô bạn nào lúc nào cũng thả đầy ngăn bàn tôi những trái chanh leo sần sùi xấu xí. Nỗi khó chịu dâng lên đỉnh điểm khi Tường Vi thu hết can đảm lén nắm tay tôi dưới gầm bàn. Bàn tay mập mạp, ram ráp, ẩm mồ hôi, trơn tuột như loài động vật nhuyễn thể. Những tin đồn bắt đầu rầm rì lan đi. Một vài kẻ quăng cho tôi ánh nhìn thương hại ác ý. Tôi không thể giả bộ thân thiện với Tường Vi hơn nữa. Viện vài lý do về bệnh mắt, tôi xin chuyển chỗ ngồi. Ngoài giờ học, tôi lập tức đặt mình vào trung tâm của những người bạn nổi tiếng, những cô nàng xinh đẹp và các cuộc bàn luận náo nhiệt. Bản tính thầm lặng giữ cho Tường Vi không đến gần tôi. Chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi, tôi đã thành công đẩy cô bạn phiền phức ra khỏi tâm trí và cuộc sống. Chỉ thỉnh thoảng tôi mới lờ mờ nghe tên cô được nhắc đến trong vài vụ xô xát, bắt nạt hay chế giễu. Chẳng có gì liên quan đến mình nữa, tôi tự nhủ như thế.
… Cho đến bây giờ…
… Cho đến tận bây giờ…
…Tường Vi uống thuốc ngủ tự vẫn…
…Trước khi ra đi, cô gái 17 tuổi để lại một bức thư tuyệt mệnh, trong đó ngoài sự hoảng loạn vì những kẻ bắt nạt học đường còn có nỗi tuyệt vọng bởi một tình yêu không được đáp lại. Đó là những gì đã đẩy cô gái ấy vào bóng tối. Đó là những gì đã buộc cô phải chọn lựa kết cục nghiệt ngã như thế…
…Trong tiếng kèn đám tang thê lương, tôi đứng chôn chân dưới giàn chanh leo trĩu quả nhà Tường Vi, cảm thấy cái lạnh thấm dần vào trái tim, ban đầu chỉ là chấm nhỏ rồi dần dần lan ra, không thể ngừng lại…
Bố mẹ làm thủ tục cho tôi chuyển trường. Họ hy vọng tránh xa nơi hỗn loạn ấy, tránh xa cái ký ức ảm đạm về Tường Vi, đứa con trai tươi vui đáng khen của họ sẽ trở lại. Nhưng tôi biết điều đó là không thể. Cái chết của cô bạn mập mạp như một cú đánh tàn nhẫn đập mạnh vào mọi thành trì tôi xây dựng bấy lâu nay, đập mạnh vào sự giả dối, tính tự phụ, kiêu căng. Tôi như đứa con nít bị lột trần, yếu ớt, tay trắng, sợ hãi trước thế gian. Tôi không biết niềm vui là gì nữa. Những đêm mất ngủ triền miên khiến tôi gầy rộc xơ xác. Bố mẹ đưa tôi đến bác sĩ tâm lý. Vô ích! Trước những câu hỏi trị liệu, tôi chỉ đơn giản là cắn chặt môi, ngoảnh mặt làm ngơ. Tôi sẽ không nói với ai về sự trống rỗng tận nơi sâu thẳm, càng không nói với ai về bàn tay ẩm ướt ám ảnh các giấc mơ. Tôi nghĩ, sẽ thật hạnh phúc biết bao nếu sớm mai tỉnh dậy, thấy mình biến thành con ốc sên bé nhỏ, an toàn cuộn mình trong chiếc vỏ vững chắc…
…Tôi lên lớp 12. Khác với trước kia, ở trường mới tôi không có bạn và cũng hầu như không trò chuyện với ai bao giờ. Thành tích học tập tụt dốc khủng khiếp. Đầu năm học giáo viên chủ nhiệm đưa ra yêu cầu từ giờ trở đi lớp phó học tập sẽ chú ý kèm cặp cho tôi các môn chính. Nghe điều đó, lần đầu tiên tôi đứng phắt dậy, gay gắt bày tỏ ý kiến trước cả lớp:
Em không đồng ý!
Thầy giáo già đẩy gọng kính lên cao, hỏi tôi, giọng chất vấn:
Tại sao?
Em không muốn!
Tôi sẽ không xem xét ý kiến của em chừng nào em chưa đưa ra một lý do chính đáng
Em không muốn! –Tôi bướng bỉnh lặp lại, gục đầu xuống, tự hỏi tại sao mọi người không đơn giản là để cho tôi được yên.
Nếu em không đồng ý với quyết định của tôi thì có thể kiến nghị lên ban giám hiệu hoặc với bố mẹ em. Nhưng hiện tại thì chẳng có gì thay đổi cả. Dù em không ngại nhưng tôi không cho phép thành tích của em ảnh hưởng đến thi đua của lớp thêm nữa. Đừng viện lý do với tôi, tôi biết thành tích của em ở trường cũ không hề tồi –Thầy giáo đóng quyển sổ ghi chép lại, ra hiệu buổi sinh hoạt đã kết thúc- Tường Vi, em đã rõ mình phải làm gì chưa?
Dạ! –Lớp phó học tập đứng dậy, ngoan ngoãn đáp lời.
Tôi nhắm mắt, hai bàn tay nắm chặt đến độ nổi gân xanh, mãi một lúc lâu mới buông ra.
Hết giờ học tôi khoác ba lô chuồn vội ra nhà xe. Nhưng lớp phó còn nhanh hơn. Cô bạn quăng túi xách lên vai, luồn lách qua các dãy xe, đứng chắn trước mặt tôi.
Hưng rỗi vào hôm nào?
Tôi ậm ừ không đáp, chỉ lẳng lặng quay đầu xe, dắt khỏi bãi gửi. Tường Vi vẫn không bỏ cuộc:
Tạm thời tuần hai buổi nhé! Chiều thứ năm và sáng chủ nhật, được không?
Tôi nắm tay lái, nhảy lên yên xe.
Học ở nhà Vi nhé! Hưng biết nhà Vi rồi, đúng không? Lần trước tổ chức hội trại Hưng có cùng các bạn đến khuân đồ mà!
Chiếc xe đạp bắt đầu lăn bánh, vòng quay nhanh dần. Tường Vi hét với theo bóng lưng của tôi:
Chiều thứ năm và sáng chủ nhật! Đừng quên nhé!
Tôi cắm cúi đạp xe, không ngoái lại lấy một lần. Tôi chỉ muốn ở một mình, yên tĩnh, tại sao không ai chịu hiểu điều đó cơ chứ?
Tôi ghét lớp phó học tập! Tôi ghét Tường Vi! Từ lần đầu tiên gặp mặt, không lý do, không báo trước, tôi đã ghét cô bạn ấy như thế! Ấn tượng đầu tiên về Tường Vi là mái tóc óng ả đến eo, mắt to, da trắng nõn. Lớp phó học tập hiền, đối với ai cũng tươi cười, dịu dàng, quan tâm. Bạn bè thầy cô đều thích cô ấy. Nhưng mỗi lần nhìn cô ta, tôi chỉ thấy tức ngực, khó chịu không thở nổi. Tôi nghĩ sao ông trời lại bất công đến thế? Nếu Tường Vi ấy được một nửa những gì Tường Vi này được ban tặng thì cô bạn đã không bị đối xử tệ bạc, sẽ không lựa chọn cho mình một kết cục bi thảm. Tôi nghĩ, lớp phó học tập sao mà giống tôi ngày xưa quá, sáng chói và được yêu mến! Có phải cô ta cũng giống như tôi không, từ nụ cười rạng rỡ đến ánh mắt thân thiện, chỉ là giả tạo và hư vinh? Phải không? Phải không? Rồi cô ta sẽ lại như tôi thôi, ngày nào đấy Tường Vi này cũng sẽ làm tổn thương một cậu bạn khép kín mờ nhạt nào đó mà cứ vô tâm cho rằng bản thân chẳng làm gì có lỗi. Đến khi ấy, khi tất cả đã muộn màng thì hối hận cũng có ý nghĩa gì đâu!
…Một tuần sau, lớp phó học tập chặn tôi trước cửa nhà xe.
Sao cậu không đến?
Tôi cúi đầu, dắt xe lách qua người Tường Vi.
Không được đi!
Cánh tay nhỏ bé vươn ra, nắm chặt lấy khuỷu tay tôi. Tôi rùng mình. Cảm giác lạnh lẽo từ khuỷu tay như mũi dao nhọn hoắt đột ngột khứa mạnh vào trái tim.
Bỏ ra! –Tôi gầm lên, vung mạnh.
Vì bất ngờ, Tường Vi không kịp phản ứng, loạng choạng lùi lại rồi mất đà ngã đập lưng xuống nền xi măng. Tôi ôm chặt khuỷu tay, hít thở thật sâu, cố bình ổn tâm trạng kích động ngu ngốc. May mắn là đã hết giờ được lúc lâu nên nhà xe vắng vẻ, chẳng có ai chứng kiến một màn vừa rồi. Mất một lúc, tôi mới nhận ra Tường Vi vẫn nằm yên trên mặt đất, không hề đứng dậy. Khuôn mặt nhỏ nhắn trắng bệch, trán rỉ mồ hôi, hơi thở nông và rời rạc, có vẻ rất đau đớn.
Lớp phó?
Trong lòng bỗng dâng lên nỗi sợ hãi, tôi sụp xuống, cuống quýt nâng Tường Vi lên. Cô bạn nghiêng mặt nhìn tôi rồi nhắm mắt lại, dường như không thể cất nổi lời.
Tường Vi?
Nỗi sợ hãi phình to thêm một nấc. Tôi đưa tay gạt mồ hôi trên trán lớp phó. Vầng trán trắng muốt lạnh toát tựa phiến băng mỏng.
Tường Vi? Vi…Vi…Vi… Vi bạn có sao không?
Tường Vi vẫn không đáp. Nhưng từ khóe mắt những giọt lệ trong suốt bắt đầu trào ra, tuôn rơi mãnh liệt như mưa rào mùa hạ. Lớp phó cứ khóc mãi , khóc mãi, âm thanh nức nở đầy tội nghiệp. Tôi luống cuống tay chân, càng cố nghĩ cách thì đầu óc càng rối tinh rối mù, cuối cùng đành thấp giọng năn nỉ:
Thật …xin lỗi! Xin lỗi Tường Vi!
Tường Vi bị đau không thể ngồi xe về nhà. Tôi đành gửi xe của hai đứa lại trường, cõng lóp phó rảo bộ. Cô bạn nằm sau lưng tôi, yên lặng một cách kỳ lạ, mái đầu thanh tú khẽ gối lên vai tôi tin tưởng, hình như mệt mỏi đến độ thiếp đi. Tường Vi rất nhẹ, nhẹ đến nỗi tôi cảm tưởng sau lưng không phải là một cô gái 18 tuổi mà là một bông hoa yếu ớt đang run rẩy. Qua mấy ngã rẽ đã đến nhà Tường Vi. Nhà lớp phó gần trường. Căn nhà nhỏ thôi nhưng lại toát ra vẻ đáng yêu khó cưỡng. Cánh cổng và hàng rào đều bằng gỗ sơn trắng, trên đó những nhánh tường vi phấn hồng nặng trĩu hoa dịu dàng leo lên, tỏa hương thơm nhè nhẹ.
Trước khi chia tay, Tường Vi níu tay áo tôi, hỏi nhỏ:
Đến nhà mình học phụ đạo, Hưng nhé!
Tôi lại cúi đầu, không đáp. Tường vi buông tay xuống nói bằng giọng buồn buồn:
Đi đi mà! Mình biết Hưng không thích mình nhưng lại càng ghét phiền phức. Bạn mà không đi nếu thầy chủ nhiệm biết được sẽ càng lôi thôi hơn…
Tôi không nhúc nhích. Tường Vi vẫn kiên trì:
Chuyện này đâu kéo dài mãi đâu! Chỉ cần thành tích Hưng tiến bộ thì tức khắc sẽ không cần mình nữa!
Cô bạn nghiêng nhẹ mái đầu, cố gắng nhìn vào mắt tôi. Khuôn mặt nhỏ nhắn vẫn dấp dính mồ hôi, chưa hết vẻ đau đớn. Tôi liếc nhanh qua hàng mi dài rung rung, gật đầu:
Hưng biết rồi! Vi vào nhà đi!
Tường Vi vẫy theo bóng lưng tôi, gọi với:
Chiều thứ năm và sáng chủ nhật! Đừng quên Hưng nhé!
Tôi nghiêm chỉnh ôn tập theo đúng nguyện vọng của mọi người. Thành tích dần tiến bộ. Mỗi tuần hai buổi Tường Vi đều đặn giúp tôi lấp lỗ hổng kiến thức từ năm lớp 11. Lớp phó là một gia sư tỉ mỉ nhiệt tình. Nhưng ngoài chuyện bài vở chúng tôi hầu như chưa bao giờ trò chuyện. Vì tôi luôn im lặng, thậm chí không có ý nhìn vào mắt cô bạn xinh xắn dù chỉ một lần. Tường Vi là người nhạy cảm, có lẽ ít nhiều cảm nhận được sự ghét bỏ của tôi nên chưa từng có ý làm thân. Chúng tôi duy trì tình trạng ấy liền mấy tháng. Rồi cũng tới lúc thầy giáo yêu cầu Tường Vi dừng việc phụ đạo để tập trung cho các kì thi quan trọng sắp tới. Điều mong mỏi bấy lâu cuối cùng đã thành hiện thực nhưng tôi không có cảm giác nhẹ nhõm như đã hằng vọng tưởng, mà chỉ thấy lồng ngực trống rỗng, không vui không buồn.
Tường Vi hẹn tôi tới nhà cô lấy chỗ sách vở bỏ quên. Chọn một sáng chủ nhật tương đối mát mẻ tôi đạp xe đến nhà lớp phó. Hè đương vào độ chín, dọc hai bên đường những cây hoa vàng tôi không biết tên đều đang trổ hoa rực rỡ. Tôi bất giác nhớ tới những dây tường vi đã hết mùa hoa mọc lan trên hàng rào gỗ sơn trắng, chỉ còn sót lại vài đóa nhạt màu rụt rè nép sau tán lá xanh tươi. Căn nhà không khóa nhưng lại khép cửa im ỉm. Tôi đứng ngoài cổng, ngó vào ô cửa sổ phòng Tường Vi, phân vân không biết có nên gọi cô bạn hay không. Loanh quanh hồi lâu, lâu đến nỗi hai bàn tay đổ mồ hôi, cuối cùng tôi quyết định ra về, tìm hôm khác đến lấy lại đồ đạc. Nắng đã gay gắt. Quãng đường trước mặt được mạ ánh sáng chói lòa, tỏa ra hơi nóng hầm hập đầy đe dọa. Nỗi mệt mỏi chán nản vô cớ lại dâng lên, đột nhiên tôi không muốn về nhà nữa. Tôi dắt xe, tìm một góc rào khuất mát mẻ, ngồi xuống. Tôi chẳng muốn nghĩ ngợi gì, chỉ im lặng ngồi thế, ngơ ngơ nhìn ngắm bầu trời trên đầu. Bầu trời cao xanh thẳm, không một gợn mây. Năm trước, năm trước nữa vẫn là màu xanh như thế. Rõ ràng vẫn là bầu trời ấy mà phía dưới nó biết bao sự đã đổi thay, niềm vui hóa nỗi buồn, xanh tươi hóa khô cằn, hi vọng hóa tuyệt vọng. Một bông tường vi yếu ớt theo gió rụng xuống chân tôi. Mùa hoa đã thật sự tàn rồi! Tôi nhặt đóa hoa hiếm hoi lên, chầm chậm giấu vào lòng bàn tay. Cánh hoa rời ra, nhàu nát.
- Tường Vi, xin lỗi!
Hôm đó, trong góc khuất của hàng rào gỗ sơn trắng, bên dưới những cành tường vi đung đưa, có một đứa con trai cao lớn ngồi ôm mặt khóc nức nở…
…Chẳng mấy chốc đã sắp hết lớp 12. Cách kỳ thi tốt nghiệp gần một tháng, đột nhiên một hôm tôi nhận được điện thoại của Tường Vi. Tôi rất ngạc nhiên, bởi từ sau khi thời kỳ học phụ đạo kết thúc, tôi và cô bạn gần như không có bất kỳ mối liên hệ nào. Lớp phó hẹn tôi gặp mặt. Ậm ừ hồi lâu rốt cục tôi vẫn đồng ý. Chúng tôi hẹn nhau ở tầng trên cùng quán cà phê bờ hồ. Lầu ba lộng gió, yên tĩnh. Tường vi đã đến trước, đang lơ đãng quấy cà phê. Tôi đứng ngoài cửa nhìn cô bạn, chợt mơ hồ cảm thấy có gì kỳ lạ. Như có linh cảm, Tường Vi đang ngơ ngẩn bỗng ngoảnh mặt về phía tôi, giơ tay vẫy vẫy. Cô bạn cười rất ngọt ngào, má lúm đồng tiền lún sâu dịu dàng như vầng trăng non. Tôi cúi đầu, không dám nhìn nụ cười ấy thêm một giây nào nữa, lẳng lặng bước đến kéo ghế ngồi xuống. Tường Vi hỏi:
Hưng uống gì?
Gì cũng được!
Lớp phó gọi hai cốc chanh leo đá. Tôi chưa bao giờ uống chanh leo. Tôi luôn nghĩ chanh leo rất đắng, rất he nhưng không, ngoài vị chua dìu dịu, đọng lại ở đầu lưỡi chỉ có vị ngọt lạnh mà thôi. Phía đối diện Tường Vi vẫn đang khuấy cốc nhè nhẹ, chiếc thìa bạc va vào thành thủy tinh phát ra âm thanh trong suốt.
Cậu tìm tôi có chuyện gì?
Tường Vi ngẩng lên. Lần đầu tiên, tôi nhìn thẳng vào mắt lớp phó. Mắt cô bạn đen láy, long lanh, không chút tạp chất. Đôi mắt ấy khẽ chớp chớp, dường như đang bối rối:
Hưng định thi trường đại học nào?
Có lẽ không hi vọng nhận được câu trả lời từ tôi nên Tường Vi lại cúi xuống, cười gượng:
Mình chỉ hỏi vậy thôi, Hưng không trả lời cũng được.
Nếu không có chuyện gì…-Tôi dợm đứng dậy
Mình sắp đi du học –Lớp phó tiếp tục khuấy cốc, giọng nói thoáng qua như hơi thở.
Trong nháy mắt khung cảnh xung quanh bỗng đông cứng, vón chặt thành cục nước đá. Rồi cũng nhanh như thế, nó lại tan ra, mềm mại và bình thản. Tôi nâng cốc chanh leo lên uống một ngụm, nhàn nhạt chia vui:
Chúc mừng!
Cám ơn!
Tường Vi mở túi xách, đặt lên bàn cuốn sổ nhỏ.
Hưng có dùng Yahoo Messenger không?
Hả?
Lớp phó đẩy cuốn sổ về phía tôi
-Trong này có địa chỉ chat của mình. Tụi mình…-Cô bạn hít thật sâu, mãi mới nói tiếp- …giữ liên lạc nhé!
Bàn tay đang giữ cốc của tôi bỗng run lên. Tường Vi vẫn đặt tay trên cuốn sổ nhỏ, giọng nói cũng run run như thế:
Vi muốn biết, Vi…có…có thể… làm… bạn đặc biệt của Hưng được không?
Có một khoảnh khắc, nghe xong câu nói của Tường Vi, hình như có một chồi non nho nhỏ vươn lên từ trái tim khô cằn của tôi. Nhưng cũng chỉ trong khoảnh khắc, khi nhìn bàn tay thon mềm đặt trên bàn, hình ảnh một bàn tay khác chợt lướt qua đầu tôi…Và mầm non bé nhỏ kia…cứ thế chết đi…chết đi vì trái tim khô cằn…Tôi nhắm mắt lại, cố không trào nước mắt.
Mình về đây…
Tường Vi ngẩng đầu nhìn tôi, đôi con ngươi đen bóng như phủ sương mờ, bàn tay còn lại cũng để lên trên, 10 ngón tay vặn xoắn.
Xin lỗi…-Bờ môi cô bạn run rẩy- Vi…xin lỗi…làm Hưng khó xử…Đáng lẽ…Vi …phải biết…rằng Hưng ghét Vi…ghét Vi mà…
Những giọt nước mắt bắt đầu rơi xuống. Tường Vi cắn môi dùng tay ra sức lau đi, nhưng càng lau thì khuôn mặt càng ướt thẫm. Tim tôi như bốc cháy. Tôi bấu lấy khăn trải bàn, cố nói chuyện:
Tường Vi đừng khóc! Không phải lỗi của Tường Vi đâu…không phải đâu…Vi là cô gái tốt nhất…rất tốt…Hưng không xứng với Vi đâu…không xứng với Vi đâu… Hưng đã không còn xứng yêu thương và nhận yêu thương từ bất kì ai nữa!
Gió thổi qua lầu ba vẫn lồng lộng. Gió thổi tan từng lớp bụi một, làm lộ ra ngăn kéo kín nhất trong tim tôi. Tôi ngồi im trên ghế, nói mãi nói mãi, nói hết, nói tất cả, về con người giả dối ích kỷ trước kia, về cô bạn đáng thương đã rời đi, về sự trống rỗng không thể lấp đầy, về nỗi tuyệt vọng mỗi ngày lại dày thêm…Tôi cứ nói không ngừng, dường như có thể dành hết cả cuộc đời để nói về điều ấy. Tường Vi không hề ngắt lời tôi, chỉ lắng nghe bằng ánh mắt kinh hoàng. Tôi chờ đợi cặp mắt ấy sẽ ánh lên một tia coi thường khinh rẻ, nhưng không, cho đến phút cuối cùng nó vẫn không gợn một tia tạp chất…
Tôi đã không dám ngồi lại đó thêm phút giây nào. Tôi tin rằng nghe xong câu chuyện đó mọi ảo tưởng về tôi của Tường Vi sẽ chấm dứt. Từ nay về sau chúng tôi sẽ như hai đường thẳng song song không có điểm chung, không bao giờ có điểm chung…
Lớp phó đã im lặng trong một thời gian dài, rất dài. Lâu đến nỗi tôi đã nghĩ, cho đến cuối cùng, tới ngày cô ấy ra đi, điều an ủi cuối cùng cô dành cho tôi chính là sự im lặng bình thản kia. Nhưng không, sau kỳ thi đại học, tôi gặp Tường Vi đang đứng đợi tôi cuối con đường trở về nhà. Trong ánh hoàng hôn đỏ ối, lớp phó đứng đó, nhìn tôi bằng cặp mắt thật dịu dàng.
Vi đã suy nghĩ rất nhiều về những điều Hưng nói ngày hôm ấy, rằng Hưng không xứng yêu thương và được nhận yêu thương. Vi biết, dù Vi có nói cái chết của cô bạn kia không phải lỗi của Hưng thì Hưng cũng sẽ không tin. Cho nên Vi đến chỉ để nói điều này thôi, Hưng à, bất kể Hưng có chấp nhận hay không, có cảm thấy xứng đáng hay không thì Vi cũng đã thương Hưng mất rồi, thương Hưng nhiều lắm. Hưng là ai cũng được, Vi đều thương Hưng…
Tôi ôm mặt, ngồi thụp xuống, lần này chẳng cần gắng gượng nữa, để mặc cho nước mắt tuôn rơi. Thì ra bấy lâu nay tôi đã thèm được nghe những lời này biết bao nhiêu. Tường Vi bước lại gần, không đợi tôi phản ứng, chìa đôi tay nhỏ bé ôm tôi vào lòng:
…Sau này dù chúng ta cách xa thế nào, thay đổi thế nào thì chỉ cần Hưng nhớ rằng trên đời đã từng có một cô gái thương Hưng thật nhiều và bất kỳ lúc nào cũng mong Hưng sống hạnh phúc… Vì vậy cứ coi như là giúp Vi, Hưng hãy tự tha thứ cho bản thân mình đi, được không? Người đã mất thì làm gì còn cách nào khác, nhưng người ở lại nếu đã tiếp tục sống thì phải sống cho thật tốt!
Tại sao lại là mình? –Tôi thì thào qua hàng nước mắt.
Tường Vi lắc đầu, có lẽ cũng đang khóc:
- Vi không biết. Vi chỉ biết, ngày hôm ấy khi nhìn Hưng ngồi khóc dưới những cành tường vi đong đưa, Vi đã nghĩ rằng giá mà…giá mà Vi có thể ở bên Hưng, nắm chặt tay Hưng thì tốt biết mấy!

Đoàn Thị Hồng Thủy
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #11 - 16. Mar 2014 , 16:00
 
MY LITTLE CÔ GÁI ĐỒ LONG
(ThaiNC)
***


Có cô gái Đồ Long lắc bầu cua
Lắc một cái ra ba con gà mái
Chung hết tiền, chung hết tiền…


Làm gì mà bạn không một lần được nghe con nít ê a rong rả khắp làng trên xóm dưới mấy câu hát trên, nhất là những lúc tết nhứt chứ" Riêng kẻ viết bài naỳ thì thú thật là nghe và hát mấy câu trên đến độ không còn nhớ nỗi bài hát nguyên thủy của nó nữa.
Nhưng mà sẽ có nhiều bạn thắc mắc “ Cô gái Đồ Long” là ai " Tại sao hầu như ai cũng không ít thì nhiều đều nghe nhắc nhở đến cô ta vài lần, không những trong bài hát vui nói trên, mà ngay cả trên địa hạt văn chương, sách báo, văn nghệ, chình trị …cô ta đều có mặt trên khắp mọi vùng chiến thuật. Cô nổi tiếng đến độ mà quí vị con nít khắp nước dù chưa gặp bao giờ cũng cùng nhau đồng ý tôn cô làm cái ngồi lắc bầu cua là đủ biết.
Vậy cô là ai " Cô là ai "?
Nếu bạn là dân kiếm hiệp để đầu giường làm gối như tôi, hoặc là phim bộ trọn đêm như bà xả ông anh rể tui, thì cô gái đồ long cũng không có gì bí hiểm. Tuy nhiên một số các bạn không phải là dân trong nghề, nên tôi tạm mở dấu ngoặc ở đây để bật mí sự tích cô gái đồ long chút xíu.
Cô Gái Đồ Long là tựa truyện vỏ hiệp nổi tiếng của tác giả Kim Dung vào những thập niên 60, hay còn gọi là Vô Kỵ- Triệu Minh, là tên hai nhân vật chính. Và Đồ Long là tên thanh đao sắc bén ai cũng muốn tranh giành trong truyện. Thực ra thì tác giả Kim Dung không hề đặt tên “ Cô Gái Đồ Long” cho bộ kiếm hiệp này. Tựa chính nguyên thủy của nó là “Ỷ Thiên Đồ Long KýÙ” (câu chuyện cuả thanh kiếm Ỷ Thiên và thanh đao Đồ Long), nhưng khi qua Việt Nam, dịch giả Từ Khánh Phụng thời đó có lẽ vì cảm nhân vật nữ Triệu Minh trong câu chuyện nên đã đổi tựa thành Cô Gái Đồ Long ("), mặc dù tôi đâu thấy có cô gái nào trong truyện đi đồ long đâu" Vậy thì tôi tin rằng Cô Gái Đồ Long là cô gái Việt Nam, không phải á xẩm đâu. Và nó đã thành một nhân vật truyền khẩu huyền thọai cho đến bây giờ: có Cô Gái Đồ Long lắc bầu cua…làng trên xóm dưới mỗi dạo Xuân về.
Mỗi dạo Xuân về, gia đình tôi có lệ sau khi chúc tết ông bà, cô,dì, chú, bác xong, tiền lì xì rủng rỉnh túi là lũ con nít xúm lại chơi Bầu Cua. Không phải ăn thua gì, chủ yếu là cho lũ nhỏ giữ lại một truyền thống ngày Tết mà cha mẹ chúng những năm thơ ấu lúc còn ở quê nhà đã một thời say mê háo hức. Và tôi để ý bắt đầu từ năm ngoái khi vừa lớn đủ là con gái tôi bao giờ cũng dành làm cái và má cháu phải ngồi cạnh bên …chung tiền. Phần cháu chỉ thích được cầm hộp Bầu Cua lắc nghe loảng-xoảng, xong rồi, không hiểu do ai chỉ bảo, dõng dạc hô to: “ cất cái tay” và khoái chí thấy các nhà con phải tuân theo răm rắp. Cháu chỉ biết tới đó, chứ nếu mà nó vừa lắc vừa hát “Thiên linh linh, Địa linh linh…” mới là đáng ngại. Một lần cháu đang lắc say sưa, tôi ngồi ngoài coi vô tình buột miệng ca “ Có cô gái đồ long lắc bầu cua. Lắc một cái ra ba con gà mái…” Không hẹn mà tất cả nhà con chung quanh dồn hết tiền vô một cửa GÀ. Khi con gái tôi giở cái nắp ra thì cả 5,6 cái miệng gào lên như sấm động “Ba con gà!!! ha ha ha!”, kể cả 1,2 cái giọng non choẹt tiếng Việt chưa chỉnh mà cũng ráng hét lên góp tiếng nói “Three con checkcons..” Ô hô !!!
Cô gái Đồ Long tý hon nhà tôi mặt mày bí xị nhìn tôi trách móc như vì ba mà …má phải chung tiền mỏi cả tay. Sang bàn kế, quí vị con nít chưa đặt tiền vội mà đồng loạt quay lại nhìn tôi như chờ ý kiến. Con gái sợ quá nhìn tôi ra lệnh” Ba, No” Thế là tôi phải tảng lờ đi nơi khác chứ lỡ tôi cao hứng ca bậy “Tròi mưa em đi bắt CÁ đem về má nấu canh chua…”, gặp giờ linh thiêng làm sao mà cháu giở ra ba con cá thì thiệt là…quá sá.
Và từ đó tôi gọi con gái tôi là my little Cô Gái Đồ Long theo đúng nghĩa nó đã từng lắc bầu cua ra ba con gà mái…
Ở đây tôi không có ý kể hết cả câu chuỵên mấy ngàn trang đầy những tình tiết éo le của mối tình Vô Kỵ- Triệu Minh. Chỉ muốn tóm tắt một chi tiết thật độc đáo trong bộ truyện. Nó đã thành một huyền thoại mà tôi nghĩ bốn năm, sáu bảy chục năm sau, dù bộ kiếm hiệp Cô Gái Đồ Long có thể mai một và đi vào quên lãng, nhưng mà chi tiết độc đáo này sẽ còn tồn tại và lưu truyền lâu lắm. Nếu chẳng vì vậy mà ngay cả ông tướng râu kẻm Nguyễn cao Kỳ vào những năm 70 của miền nam VN ngày trước cũng đã ví von mượn tình tiết này làm thí dụ điển hình cho cuộc đời hậu chính trị đầy thăng trầm của mình. Câu chuyện như vầy:
Trước khi là đôi tình nhân yêu nhau thắm thiết, Vô Kỵ và Triệu Minh là hai kẻ đối đầu chọi nhau nẩy lửa. Nàng là Quận chúa Mông Cổ, thông minh quyền biến, thống lãnh một lực lượng võ sĩ xâm lấn Trung Hoa. Chàng là Giáo chủ Minh giáo, vỏ nghệ tuyệt vời đai đen mười mấy đẳng, bộ hạ cũng hàng ngàn, cương quyết chống lại quân Mông Cổ. Dĩ nhiên là họ đã đấu sức, đấú trí biết bao nhiêu trận để quen biết và cuối cùng là yêu nhau chứ! Nhưng mà một lần phe Vô Kỵ bị Triệu Minh bắt bí, khiến thủ lảnh Vô Kỵ phải chịu hứa làm cho nàng ba chuyện thì mới được nàng tha cho.
Và chàng ma giáo giáo chủ Vô Kỵ đã thực hiện được hai chuyện .Chuyện thứ ba tưởng là được tha, vì hai người sau một thời gian thử thách, nàng thì từ bỏ tất cả địa vị cao sang quyền quí, chàng thì bị thuộc hạ lừa bỏ…hai người từ đó chỉ bên nhau không màng thế sự nữa.
Câu chuyện nếu chấm dứt ở đó cũng là đẹp rồi, nhưng Kim Dung tiên sinh đã thêm vào khúc cuối thật độc đáo và đây là điều tôi muốn bàn chơi với các bạn trong bài này.

Một hôm Triệu Minh, bây giờ đã là Vô Kỵ phu nhân, bỗng cắc cớ nhắc đến ba lời hứa năm xưa của phu quân, và đòi thực hiện lời hứa thứ ba. Chàng Vô Kỵ tá hỏa tam tinh, vì hai điều trước đều là những chuyện kinh thiên động địa, kể cả chuyện nàng dám đơn thân độc mả, vì yêu mà cả gan cản trở Vô Kỵ có lúc đang làm đám cưới cùng nàng Chu Chỉ Nhược, khiến cho cô dâu nổi máu tam bành cho một đòn Cưủ Âm Bạch Cốt Trảo thừa sống thiếu chết.Tuy nhiên đã hứa thì cũng đành rụt rè hỏi điều gì, vì suy từ hai điều trước, điều thứ ba này chắc phải khủng khiếp lắm. Ai ngờ Triệu Minh chỉ nũng nịu đưa cây cọ kẻ lông mày trong tay cho chồng mà nói rằng” Lông mày của thiếp nhạt quá, phu quân phải kẻ lại dùm” Chàng thở phào như trút được gánh nặng và hùng hồn tuyên bố “ Vô Kỵ ta từ nay ngày ngày sẽ kẻ lông mày cho ái thê”
Đó, Cô Gái Đồ Long của ông Kim Dung cũng dễ thương ghê chưa"
Tới đây, dù không đọc kiếm hiệp hay phim bộ, nếu từng là dân Saigon trước 1975, chắc bạn cũng thấy câu chuyện này có vẻ quen quen"
Đúng vậy. Ông tướng Nguyễn Cao Kỳ ngày xưa đã nhiều lần tự ví mình với Trương Vô Kỵ. Ông cũng là một cây kiếm hiệp điệu nghệ, và đương nhiên ông đã tặng cái danh hiệu Cô Gái Đồ Long dễ thương đó cho phu nhân Tuyết Mai của ông. Có điều tôi thắc mắc là khi đó đã có cô Kỳ Duyên chưa nhỉ" Chắc là chưa. Chứ nếu có cô Kỳ Duyên, và nhất là cô con gái khoảng 8 hay 9 tuổi, cái tuổi như con gái tôi bây giờ, Tôi nghĩ rằng chắc ông thấy cô con gái mới là Cô gái đồ long thực sự của ông.
Bởi vì, kẻ lông mày cho vợ tuy là một điều thơ mộng, nhưng có lẽ chỉ có trong …tiểu thuyết. Thực tế đã có được mấy ai. Giả dụ, chỉ giả dụ thôi, đã có người làm thiệt như ông Nguyễn cao Kỳ chẳng hạn, thì chắc cũng chẳng được bao lâu. Nhưng nếu có một lần ông cầm lược chải đâù cho cô con gái thì có lẽ ông đã tuyên bố khác.
Thí dụ bây giờ có ai hỏi, việc gì trong ngày bạn làm và cảm thấy thích thú nhứt" Chín người thì mười ý, dĩ nhiên. Với tôi, mỗi sáng cầm cái lược chải đầu cho con gái trước khi đi học là một điều thích thú vô cùng.
Hình như cuối năm lớp Hai, 2nd grade, thì phải, tiểu cô gái đồ long của tôi một hôm thỏ thẻ xin ba mẹ được để tóc dài quá vai… cho giống mẹ. Mẹ Đồ Long dĩ nhiên là đồng ý liền. Có ai mà từ chối con gái muốn giống mình đâu nà" Thế là chỉ vài tháng sau, cháu đã có mái tóc như ý, còn dài hơn của mẹ nữa. Cháu quý mái tóc của mình lắm. Ban đầu thì cháu ngày ngày tự săn sóc lấy mái tóc trước giờ đi học. Nhưng càng về sau tóc càng dài hơn và cháu còn nhỏ quá để chải cho đúng điệu. Cô gái Đồ Long bèn nhờ mẹ. Tội nghiệp, Mẹ Đồ Long thì phải đi làm xa, lái xe cả tiếng mới tới được hãng cho nên dù đã dậy thật sớm nhưng sau khi chuẩn bị đồ ăn sáng cho hai đứa con xong thì phải vội vả ra đi cho trứơc giờ kẹt xe trên xa lộ. Cho nên, mẹ Đồ Long không có đủ thì giờ chăm sóc mái tóc cho con một cách kỷ lưỡng được. Vậy thì chỉ còn ba Đồ Long tương đối không phải đi làm sớm mới đủ thì giờ nhận lãnh nhiệm vụ to lớn này.
Mỗi sáng, khoảng 5 phút trước khi phải ra khỏi cửa, Tiểu Đồ Long cầm cái lược đưa cho ba, xong rồi là tự động nhảy phoóc vào lòng ngồi chờ chải đầu. Ban đầu thì tôi chỉ chải qua loa miễn sao cháu thấy OK là được. Nhưng sau vài tuần, tôi bắt đầu cảm thấy thích thú. Chải đầu tưởng là một chuyện đơn gỉản nhất đời đối với phe húi chúng tôi, nhưng lại là cả một vấn đề quan trọng đối với cánh phụ nữ, dù là phụ nữ tý hon như tiểu cô gái đồ long của tôi. Bạn phải kiên nhẫn ngồi gở những cụm tóc rối của cháu trước khi chải nếu không cháu sẽ bị đau đó. Tuy nhiên đó không phải là điều khó. Điều khó là bạn phải điều chỉnh tay sao cho vừa phải, bởi vì sẽ có những cụm rối nằm ở dưới bị che không thấy, và nếu bạn cứ thẳng tay chải mạnh xuống thì sẽ nghe cháu xuyt xoa “ ui- da, ui-da…” là cái chắc. Và nếu mà bạn để cho cháu phải ui-da quá nhiều thì sự nghiệp chải đầu cho con gái coi như hưu hỉ. Cháu sẽ lay off bạn là cái cẳng. Vậy sau khi đọc xong bài này và bạn bỗng có ý muốn theo tôi chải đầu cho con gái thì phải nhớ những điều sau đây:
1_ Phải chú ý gở bỏ những cụm tóc lớn dính vào nhau trước khi chải.
2_ Tốt nhất là để cháu ngồi trong lòng khi chải vì thế nào cũng có những cụm rối mà bạn không biết. Khi chiếc lược trong tay bạn chải gần tới chỗ rối đó, cháu bắt đầu thấy đau và theo phản ứng tự nhiên cháu sẽ nhướng người để giảm bớt đà lược, thì bạn sẽ biết mà dừng lại cho kịp lúc, nếu không để cho cháu phải ui-da nhiều quá là mất job đó.
3_Vì vậy mà vận tốc khi chải cũng vừa phải thôi chứ nhiều khi quá nhanh thì dù cháu có phản ứng trước bạn cũng không dừng lại kịp.
(Và chắc chắn là sau vài tiếng ui-da, bạn sẽ thấy một khuôn mặt phụng phịu hờn giổi quay lại liếc bạn một cái sắc như gươm để cảnh cáo).
4_ Nếu tóc cháu quá dài thì bạn phải chải hai lần, bắt đầu ở giữa chải xuống trước, xong rồi mới bắt đầu từ trên đỉnh đi xuống. Như vậy sẽ tránh được tình trạng bạn dồn hai ba chỗ rối nhỏ thành một cụm lớn phía dưới và rất khó gở.
Đó, bạn thấy chưa, đâu phải dể.
Bạn có uống cà phê không" Tôi muốn nói là cà phê mỗi buổi sáng đó. Và khi bạn đã uống cà phê mỗi buổi sáng rồi mà bỗng dưng có một ngày vì một lý do nào đó bạn không thể có thì cảm nghĩ của bạn ra sao" Cảm giác thiếu thốn cà phê thế nào thì cảm giác một ngày không chải đầu cho con gái của tôi cũng giống như vậy.
Có nhiều người than rằng, nuôi con lớn hồi nào không biết. Tôi thì tôi biết chứ.
Lúc Tiểu Đồ Long mới bắt đầu nhờ ba chải tóc, cháu nhảy một cái lên đùi ba gọn lỏn, nhiều khi chải chưa xong đã nhảy xuống chạy chơi chuyện khác. Lớn hơn tý nữa, cháu biết kiên nhẫn hơn và biết hợp tác cho ba chải đầu. Thí dụ như chải bên trái xong không cần nói cháu cũng biết xoay sang bên phải chải tiếp. Chaú cao lên nên chân loòng thoòng và nặng nề hơn, dể bị tuột xuống đất. Và mới đây thôi, cháu đã biết sau khi chải đầu xong, thỉnh thoảng chạy ra trước gương hất mái tóc qua lại, lấy cây lược tự chỉnh trang chút xíu cho thật đúng ý nữa chứ. Và nhất là, trước kia mỗi lần tôi vô ý làm đau đầu, dù ba có xuyt xoa xin lỗi đi nửa cháu cũng phụng phịu dỗi hờn chút đỉnh. Sau này thì khi tôi xin lỗi, cháu chỉ nhẹ nhàng thông cảm “It’s OK dad. Không sao, ba”.
Và tôi biết con mình đang lớn.
Và tôi biết sẽ có ngày nó lớn đủ để không cần mình chải đầu cho nó nữa.
Chỉ 2 phút mỗi sáng thôi, nhưng đó là những phút đầm ấm nhứt của một ngày. Trên tay tôi là cây lược, và trước mặt tôi là mái tóc rối của con. Không còn gì khác nữa. Những gì rắc rối cuả cuộc sống chung quanh tạm thời xếp qua một bên.
Và tôi biêt con mình đang lớn.
Và tôi biết ly cà phê thơm nồng buổi sáng đó sẽ có lúc không còn. Buồn quá, tôi tâm sự cùng mẹ Đồ Long. Nàng vổ về an ủi: “Ô hay, nuôi con thì nó phải lớn chứ" Nhưng mà dù lớn tới đâu đi nữa thì nó bao giờ cũng chỉ là baby, là little Đồ Long của mình hết. Phải không" Còn tới lúc mà nó không nhờ anh chải đầu nữa thì anh… chải đầu cho em mỗi sáng đi làm. OK "” HƠƠƠ!!, nghe sao quen quen! Hình như lúc đó tôi phải nói lại rằng “ OK, OK, từ nay Vô Kỵ ta, ủa quên, Thái tui ngày ngày sẽ chải tóc cho bà xã đi làm”.
Ly cà phê sữa đổi thành… cà phê đen. Vị ngọt đắng thì chắc có khác, nhưng mà hương cà phê vẫn là một, và chắc cũng sẽ làm mình ấm lòng mỗi sáng như nhau. It’s OK


(ThaiNC)
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #12 - 18. Mar 2014 , 20:50
 
Mẹ,và nồi bánh chưng tết


   
(Nhớ Mẹ và kính tặng các bà Mẹ miền Nam trong thời khốn khó của đất nước)



Khi toàn bộ một màn đen tối chụp lên miền Nam Việt Nam vào thời gian mà từ lúc ấy trở đi không ai có thể quên được dù có cố gắng quên, tất cả người dân đều cảm nhận được sự khó khăn đang chờ đón. Khó khăn không phải do từ nay phải cố gắng xây lại đất nước đã kết thúc được cuộc chiến vốn đã quá lâu và tàn bạo. Đất nước nào nếu đã phải trải qua thời chiến tranh đều như thế. Cuộc sống khó khăn. Thắt lưng buộc bụng. Làm việc nhiều hơn. Chịu đựng mạnh mẽ hơn. Nhưng nếu chỉ có thế thì miền Nam và cả nước có thể vượt qua mà không phải mất mát quá nhiều và cho đến tận ngày hôm nay vẫn mang tiếng một đất nước chưa phát triển. Tài năng và tài nguyên cũng như các sự thuận lợi về thiên nhiên sẽ giúp đất nước phục hồi sự hùng mạnh dễ dàng nếu đất nước được dẫn dắt bằng một chính sách hướng đạo đúng đắn. Nhưng không! Chỉ sau một thời gian rất ngắn mọi người dân bắt đầu rơi vào guồng máy tra tấn dã man. Sự đói no được tính bằng ngày và đối với những gia đình lính và công chức của chính quyền cũ thì phải tính bằng từng bữa ăn. Không biết ngày mai, sáng mai hoặc trưa chiều tối mai có được ăn no. Dưới những lệnh học tập chính trị, lệnh ngăn sông cấm chợ, không cho tự do lưu thông hàng hóa và tập trung phân phối lương thực, “đánh” tư sản nhiều đợt và các cuộc đổi tiền, cào bằng cho nghèo như nhau.... Cuộc sống của người dân miền Nam như đang ở trong một trại giam khổng lồ. Mọi người, mọi gia đình cố gắng vùng vẫy, trốn chạy, mưu sinh tìm sự sống như bầy cá không may rơi vào rọ.



Gia đình tôi rất đông anh em với người cha là sĩ quan cấp trung của quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), Mẹ tôi chỉ là nội trợ và các chị tôi là công chức. Bố tôi vốn dĩ lại rất thanh liêm dù địa vị ông cũng có nhiều quyền hành có thể giúp ông có nhiều bổng lộc. Sự thanh liêm đó về sau này đã nhiều lần khiến ông ray rứt khi chứng kiến gia đình quá túng quẫn. Vì thế, sự khó khăn trong gia đình tôi rất lớn. Câu chuyện của tôi sẽ loãng ra nếu tôi kể quá nhiều về những khó khăn khi ấy. Tôi chỉ muốn kể về sự lo toan của Mẹ tôi khi năm hết tết đến trong gia đình và tôi nghĩ những bà mẹ khác cũng thế.



Với tình cảnh như thế, nguồn thực phẩm Tết trong gia đình tôi chỉ có thể kéo dài được dăm ngày hoặc một tuần mà vẫn còn chút hương vị Xuân chính là nồi bánh chưng. Năm nào gia đình tôi cũng gói bánh chưng và phải nấu một nồi to để có đủ bánh cúng Tổ tiên; biếu họ hàng và kéo dài các bữa ăn ngày xuân. Bánh chưng hoặc được gói với một khuôn gỗ hoặc chỉ bằng đôi tay trần. Bố tôi là người duy nhất trong nhà biết gói bánh, anh tôi và tôi cũng đã lớn nhưng không biết. Sự khó khăn đó là vì cách Bố tôi gói chỉ là gói tay trần. Tuy thế, chiếc bánh vẫn rất vuông vắn, rất đẹp. Bánh chưng được gói bằng tay với những chiếc lá dong mà mặt trong của lá bọc ra ngoài nom đẹp hơn nhiều so với chiếc bánh được gói trong khuôn. Gói bánh với khuôn, mặt ngoài của lá dọng với gân lá cộm lên đưa ra ngoài, tạo góc vuông bén cạnh nhưng khi lá khô thì trở màu vàng úa. Chúng ta thường nói: Bánh chưng xanh – Dưa hấu đỏ. Bánh chưng gói bằng tay trần sẽ có màu xanh từ lá ngoài cho đến mặt bánh bên trong xanh mướt khi bóc. Với trách nhiệm người lính và sự an ninh trong những ngày cuối năm cho người dân, kinh nghiệm năm Mậu Thân 1968, Bố tôi cố gắng thu xếp để sáng ngày 28 Tết ở nhà hoặc vào sở làm việc một chút rồi tranh thủ về nhà gói bánh. Những ngày trước đó, Mẹ tôi đã đi chợ chọn mua sẵn gạo và đậu xanh. Đêm trước ngày gói, gạo và đậu được nhặt kỹ các hạt đen, sâu, lép, mốc và ngâm nước. Bà cũng giành quyền mua lá dong. Vì bánh gói tay nên bà luôn chọn lá dong loại nhất. Chiếc lá phải to, lành lặn và non. Bà nói lá già thì giòn, khi gói dễ gẫy, rách. Bà cũng dặn hàng thịt quen để mua thịt heo ngon. Việc chọn mua nguyên liệu gói bánh rất quan trọng, quyết định chất lượng bánh. Nhà tôi ở vùng Ông Tạ, Gia Định. Trong nhiều năm, mỗi dịp tết âm lịch đến, từ ngày 23 tháng Chạp, ngày mọi nhà đưa Ông Táo về trời báo cáo Ngọc Hoàng việc trần gian, cho đến sáng 30, đoạn đường Thoại Ngọc Hầu từ chỗ nhà tôi ở hẻm Cổng Bom - Chùa Khuông Việt - ra đến Ngã Ba đường Lê Văn Duyệt, được ngăn lại, không cho xe chạy để họp chợ Tết. Trên đường Lê Văn Duyệt phía ngoài ngã ba, chợ Tết Ông Tạ kéo dài đến quá trường Thánh Tâm phía bên phải hoặc quá nhà thờ Nam Thái phía bên trái. Nơi đây đã trở thành chỗ mua sắm có hương vị đậm đà ngày Tết Việt Nam nổi tiếng của Sàigòn.



Sáng sớm ngày gói bánh, chị Cả tôi là người quán xuyến việc đãi đậu xanh, đãi gạo và rửa lá. Chị rất tỉ mỉ, cẩn thận. Đậu xanh được đãi thật sạch để không còn một tí tẹo gì của vỏ, mày hoặc hạt đậu lép. Khi vớt lên khỏi mặt nước, hạt đậu xanh nở to đầy và màu vàng tươi trước khi đưa vào chõ hấp chín. Khi đậu chín, được đưa vào cối để giã nát, sau đó được nắm chặt lại thành từng viên to. Khi nguội, từng viên đậu lại được thái mỏng và vò tơi ra. Lá dong cũng phải được rửa thật sạch. Chị tôi đặt lá lên chiếc mâm và lấy khăn dấp sũng nước để lau. Lau đi lau lại nhiều lần và tráng nước cho thật sạch. Lá được rửa thật sạch như thế sẽ giúp bánh không bị mốc và để được nhiều ngày. Thịt heo dùng để gói bánh thì mẹ tôi hay dùng thịt nách. Bà bảo, thịt nách không nạc quá, da không quá dầy, mỡ lại dễ tan chảy và ngấm vào gạo khiến bánh dẻo và ngon hơn. Mẹ tôi thái thịt miếng nào miếng nấy to bằng lòng bàn tay, dầy đến 3 phân. Một chiếc bánh to nặng đến một ký rưỡi sau khi nấu cũng chỉ đặt 2 miếng. Thịt được ướp với một chút nước mắm ngon, hành tím băm nhỏ và nhiều tiêu.



Khi chuẩn bị cho Bố tôi gói bánh, anh em chúng tôi dọn quang một chỗ trong nhà, trải chiếu và bày lên một chiếc mâm ngay giữa chiếu. Lá dong sau khi được rửa sạch, chặt cuống và tề một chút ở ngọn lá, xếp lớp trên một cái mẹt to cho ráo nước, được đặt một bên chỗ Bố tôi ngồi. Bó lạt chẻ từng sợi mỏng từ ống giang được ngâm nước cho mềm nằm kế bên. Gói bánh bằng tay trần thì sống lá dong luôn được tước mỏng bớt để khi gói việc xếp và gấp lá dễ dàng hơn. Đậu xanh sau khi được thái tơi để trong một khay to đặt một bên. Rá gạo trắng ngần được mẹ tôi cho vào một ít muối rồi xóc đều lên đặt phía trước mặt cùng với nồi thịt. Em gái tôi không quên pha cho Bố tôi ấm trà nóng. Ngày gói bánh chưng tết là ngày thú vị nhất trong năm của gia đình chúng tôi. Mỗi người một việc, lớn hay bé đều có việc cả và chúng tôi rất thích thú với công việc chung của gia đình.



Mẹ tôi luôn quan tâm đến từng chút trong thời gian gói bánh. Bà nếm gạo sau khi xóc muối xem có nhạt hay mặn quá không. Phải luôn luôn có hai rá gạo để khi gói gạo không quá ướt. Khi Bố tôi dùng đến rá thứ nhì thì Bà bảo chị tôi vớt ngay rá gạo khác và để sẵn đấy. Bà không cho thái đậu quá dầy, phải mỏng và bóp tơi ra. Bố tôi bắt tay vào việc gói bánh. Cả gia đình quan sát bàn tay của ông. Hai sợi lạt đặt trước hết, chiếc ngang chiếc dọc như chữ thập; hai chiếc lá dong đặt lên nằm ngang ngược chiều nhau, mặt trong của lá úp xuống, một cạnh của chiếc lá dưới được xếp lại để khi hoàn thành trở thành mặt ngoài của bánh trông đẹp hơn – khi gói chiếc bánh xong, nếu cạnh lá xếp nằm ngay giữa và vuông góc với 2 cạnh cũng như song song với 2 cạnh còn lại đồng thời chiếc lạt nằm chồng lên nếp lá xếp thì chiếc bánh trông cân đối -, chiếc lá trên đặt gác lên một phần của chiếc lá dưới; hai chiếc lá khác được tiếp tục đặt dọc và chồng lên nhau sao cho đủ chiều dài khi ta nắm hai đầu cuống lại với nhau để gói phần gạo, đậu thịt đã đặt lên, hai chiếc lá này lại đặt ngửa mặt trong của lá lên để khi nấu màu xanh của lá sẽ thấm dính vào gạo giúp mặt bánh có màu xanh. Bố tôi đổ một bát gạo đầy mà Mẹ tôi múc sẵn lên mặt lá, ông lấy ngón tay san bằng lớp gạo còn dầy khoảng hơn 1 cm rồi đổ lưng bát đậu xanh. Mẹ tôi đã chuẩn bị và gắp đặt lên mặt lớp đậu xanh cũng đã được san bằng bằng hai miếng thịt, phần da đưa ra ngoài, phần thịt đưa vào trong. Bà thái và lựa các miếng thịt khi gói rất khéo sao cho mọi chiếc bánh đều có nhân tương tự nhau. Bố tôi lại đổ lên một lớp đậu xanh rồi lại một chén gạo đầy. Thế là các miếng thịt đã nằm giữa lớp đậu và được bao phủ bởi lớp gạo. Bố tôi khéo léo nắm hai đầu cuống của hai chiếc lá dọc xếp chồng lên nhau để che phủ lớp gạo. Một tay giữ hai chiếc lá ấy, một tay ông luồn xuống dưới hai lá to bên ngoài lật úp vào. Giữ yên khi ép lá xuống ông lại lấy tay kia luồn hai đầu lá bên kia và ép đè xuống. Gạo đậu đã nằm gọn trong bốn cạnh lá ép vào. Ông vừa giữ các chiếc lá vừa xoay chiếc bánh 90 độ để xếp hai cạnh lá còn lại. Trong lúc xếp các lớp lá, gạo đậu bên trong luôn được giữ không quá chặt cũng không quá lỏng cũng như cố gắng định hình vuông vức. Hai bàn tay người gói luôn cảm nhận được sự vuông vức của các góc cũng như sự cân bằng của lớp gạo đậu thịt bên trong mà điều chỉnh. Khi xếp hai cạnh lá cuối cùng, Bố tôi kéo hai đầu của một chiếc lạt, so cho cân bằng, vuốt ngón tay theo sợi lạt và bấm chặt trên mặt lá, các ngón tay còn lại nắm chặt thân lạt và xoắn lại sau đó cài vào thân sợi lạt đã buộc chặt bánh. Lại xoay chiếc bánh và thắt nốt chiếc lạt còn lại. Thế là gói xong chiếc bánh chưng. Ông lật chiếc bánh lại, vừa xoay vừa dùng lòng bàn tay ấn đều toàn chiếc bánh để gạo đậu bên trong san đều ra. Bánh chưng gói bằng tay trần không có nhiều lớp lá và chỉ buộc bằng hai sợi lạt nhưng vẫn chắc chắn, nên đòi hỏi người gói phải thật khéo léo sử dụng đôi bàn tay sao cho vừa gói, vừa giữ bánh, rồi xoay, rồi buộc mà lá không bị bung sút ra làm gạo đậu bị lẫn lộn.



Cứ thế đến trưa, Bố tôi đã gói khoảng 40 chiếc bánh. Đôi khi còn sót lại một ít gạo đậu mà không thể gói thành một chiếc, Bố tôi gói cho các em tôi vài cái bánh tày trông giống như chiếc bánh ú to. Các em tôi rất thích và đưa các chị tôi luộc ngay. Bánh này luộc không lâu như những chiếc bánh chưng to kia. Chỉ vài tiếng đồng hồ là chúng có bánh ăn rồi. Bố tôi ăn cơm, nằm nghỉ một lúc rồi dậy đi làm. Khi đó đến phiên anh em tôi chuẩn bị bếp và nồi nấu bánh. Bếp là ba hoặc bốn viên gạch thẻ xếp chồng lên nhau làm ba góc, đủ cao để đút các thanh củi to. Sau khi kê nồi bánh to đùng lên bếp cho ngay ngắn, cân bằng, các cuống lá dong chặt bỏ ban sáng được cho vào đáy nồi làm lớp lót để đỡ cho những chiếc bánh xếp phía dưới không bị hư lớp lá, các chiếc bánh chưng sau khi được đặt úp vào nhau và buộc thành từng đôi được đặt ngay ngắn vào thùng. Có năm nhà tôi phải dùng đến 2 thùng mới nấu hết số bánh gói được. Sau đó đổ nước vào ngập mặt bánh. Lửa bếp được đốt lên. Bắt đầu từ lúc nước sôi bánh sẽ được nấu liên tục khoảng 12 tiếng đồng hồ. Anh tôi là người phụ trách việc đun bánh. Kỹ thuật đun bánh quan trọng nhất là giữ lửa trong bếp cháy đều, lửa không qúa to và cũng không được để lụi tàn đồng thời phải theo dõi mực nước trong nồi để châm thêm. Nước trong nồi phải luôn luôn ngập mặt bánh. Đêm nấu bánh chưng luôn là khoảng thời gian đầy thi vị Tết. Chúng tôi trải chiếu cạnh bếp rồi ngồi quây quần, vừa trông bếp vừa trò chuyện, ăn mứt, cắn hạt dưa hoặc đánh bài tam cúc hoặc đổ cá ngựa. Bạn bè của chúng tôi thường ghé lại và cùng thưởng thức thời khắc giao mùa. Gia đình tôi thường bắt đầu nấu bánh vào khoảng 3 hay 4 giờ chiều và đến khoảng giờ ấy sáng hôm sau thì vớt. Chúng tôi chuẩn bị mặt bếp tráng men của nhà để nén bánh sau khi nấu. Bánh sau khi được vớt ra được nhúng vào rửa trong một chậu nước lạnh to. Sau đó xếp lớp cũng từng đôi trên mặt bếp. Chúng tôi lấy một miếng ván to đặt lên che toàn bộ các chiếc bánh và dùng các vật nặng đặt lên để nén. Việc làm này nhằm giúp bánh dẽ chắc.



Sau nhiều năm quan sát, Tết năm 1975 tôi được Bố tôi hướng dẫn và tự tay mình gói được chiếc bánh chưng. Không ngờ việc đó giúp gia đình tôi vẫn còn có thể có được những chiếc bánh chưng ăn vào ngày Tết. Khi miền Nam lọt vào tay cộng sản, Bố tôi và tất cả các sĩ quan quân đội chính quyền VNCH bị cộng sản bắt tù đày. Tôi trở thành người duy nhất trong gia đình biết gói bánh chưng. Cứ thế trong nhiều năm sau đó khi Bố tôi vẫn còn bị tù đày, Mẹ tôi vẫn cố gắng nấu cho được nồi bánh chưng cho con cái ăn trong những ngày đầu năm mới.



Gia đình tôi ngày càng lâm vào tình cảnh khó khăn. Bố tôi phải đi tù thì chỉ vào tháng sau đến lượt anh tôi cũng vào tù vì tham gia hoạt động chính trị. Phần lo bữa cơm cho đàn con đông, phần lo dành dụm để đi thăm nuôi người thân bị tù. Mẹ tôi không biết buôn bán, một chút tài sản tiền bạc có được phải bán đi dần để sống và những cuộc đổi tiền khiến gia đình tôi kiệt quệ. Cái đói lãng vãng quanh nhà. Nồi bánh chưng muốn có cũng phải được chuẩn bị thật lâu. Vài tháng trước khi hết năm Mẹ tôi đã chuẩn bị cho nồi bánh chưng truyền thống. Mẹ tôi và các chị chuẩn bị từng hạt đậu xanh, từng hạt gạo. Về thịt thì bà bảo chúng tôi quây một góc sân làm cái chuồng nhỏ. Bà mua một con heo con, giống heo mọi. Giống heo này khi lớn cũng chỉ nặng vào khoảng 30 đến 40 kg, ít mỡ, dễ nuôi, ít bệnh. Hàng ngày bà mua rau muống loại người ta cắt bán dành cho việc nuôi heo, bà mua thêm cám và kiếm các thức ăn thừa khác để làm thức ăn cho nó. Cứ thế, năm tháng gần hết thì con heo cũng lớn dần. Mẹ tôi cứ đi ra chuồng vỗ về con heo mọi. Bà thương nó vì nó là tặng vật quý báu của mùa xuân cho gia đình tôi. Gần nhà tôi có một lò sát sinh, Mẹ tôi nhờ một anh hàng xóm làm việc trong đấy vào sáng sớm ngày 28 tháng chạp sang bắt con heo mọi để làm thịt dùm. Hôm ấy, Mẹ tôi dậy rất sớm. Tôi không biết Bà thì thầm gì với con heo nhưng tôi biết chắc chắn với tấm lòng vô cùng nhân hậu, Bà sẽ cám ơn nó về sự hy sinh cho gia đình tôi. Bà sẽ cầu nguyện cho nó đã xong một kiếp loài vật trên đời. Nó sẽ đầu thai làm loài khác sung sướng hơn. Chỉ sau 30 phút, anh đã đưa lại cho Mẹ tôi một rổ thịt to đã được làm sạch sẽ. Nhờ nuôi con heo mọi, gia đình tôi không những có được thịt để gói bánh mà còn có thể làm nhiều thức ăn khác: đầu và tai thì làm giò thủ, chân giò thì nấu canh, bộ lòng thì giúp chúng tôi có được một nồi cháo huyết ngon lành.



Tết đầu tiên tôi ngồi vào chỗ Bố tôi vẫn thường ngồi gói bánh. Việc chuẩn bị vẫn được Mẹ tôi, các chị và anh em chúng tôi làm như mọi năm. Hạt gạo vẫn trắng ngần, hạt đậu vẫn vàng tươi mát mắt, Mẹ tôi vẫn chọn những chiếc lá dong loại hạng nhất. Nhất là khi người gói, là tôi, là một tay mơ. Mẹ tôi ngồi trước mặt tôi nhắc và giúp tôi từng chút một. Tôi cố gắng gói được từng chiếc bánh nhưng đến khâu xoắn những chiếc lạt buộc thì tôi không cách nào làm tốt được. Thế là Mẹ tôi lại xoắn giúp tôi sợi lạt. Bà buộc rất dễ dàng. Mỗi lần như thế tôi lại mỉm cười và đẩy chiếc bánh về phía Mẹ, giữ chiếc bánh cho bà so sợi lạt và xoắn tít rồi cài chặt lại.



Nhiều tháng trời Mẹ tôi tích lũy dần dần cho nồi bánh chưng ngày Tết. Tôi nhìn thấy trong những chiếc bánh của quãng thời gian khốn khó đó có bóng dáng của Bố tôi còm cõi trong trại tù, những ngày cuối năm giữa núi rừng mờ sương đau đáu lo lắng nhìn về chốn vợ con ở xa xôi; có bóng dáng của Mẹ tôi chăm chút, tảo tần lo cho con và chú heo mọi; có giọt mồ hôi của chị tôi bỏ dạy bươn chải chạy chợ mua từng lạng gạo, lạng đậu; có giọt mồ hôi của anh em tôi cặm cụi làm việc để có tiền đưa cho Mẹ. Buổi sáng khi chúng tôi bóc thưởng thức những chiếc bánh đầu tiên còn âm ấm nóng, mời Mẹ ăn chúng tôi thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má gầy của Mẹ. Đôi mắt đẹp của Mẹ trông buồn bã. Năm trước Bố tôi còn ngồi ăn chung chiếc bánh chưng mang công sức của cả gia đình.


Đức Hùng - Lê Khánh Long

(Tết Tân Mão)
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #13 - 25. Mar 2014 , 20:55
 


Bà nội


    Ông Nội đón cu Tí đi học về, nó ngồi vào chiếc ghế sắt kê gần cửa sổ như thường lệ và đong đưa hai chân chờ đợi người cởi giầy. Bà Nội ngồi xuống nhẹ nhàng tháo cho cháu từng chiếc giầy, xong cu Tí nhảy xuống khỏi ghế, ôm lấy cổ bà, để mặc cho bà âu yếm hôn lên khuôn mặt bầu bĩnh và mái tóc thơm tho của nó. Dường như nó biết đó là bổn phận phải trả công cho bà đã hầu hạ, chăm sóc nó, là làm cho bà hài lòng sung sướng.

Bà vuốt ve bàn tay xinh của cu Tí và dịu dàng hỏi:

- Hôm nay cu Tí học vui không? Có đứa nào đánh cháu bà không?

Cu Tí tự hào khoe:

- Không có đứa nào đánh cháu, mà cháu còn đánh thằng kia đó bà nội.

- Ấy chết! Sao cháu lại đánh bạn? lần sau không được làm thế nữa, có gì thì mách thầy giáo, nghe chưa?

Cu Tí ngoan ngoãn gật đầu, rồi nó chạy biến vào phòng chơi game.

Bà Nội hỏi với theo:

-  Cu Tí có đói không? Bà lấy cơm cho mà ăn…

-  Không, không, cháu no rồi. Nó trả lời vội vàng để không bị quấy rầy khi chơi game.

Ông lên tiếng khiển trách nhẹ nhàng:

-  Nó ăn ở trường mà bà lúc nào cũng lo nó đói.

Bà bèn chứng minh:

- Trẻ con có khi mải chơi quên ăn, về nhà bụng đói là thường. Hôm nọ nó về nhà, ăn một hơi hết cả bát cơm, ông không nhớ sao? À, hôm nay tôi có làm món cá bống trứng kho tiêu, chiều mẹ cu Tí đến, cho mẹ nó một hộp mang về nhà.

- Bà hết lo cho con lại lo cho mẹ, chẳng bù trước kia bà ghét nó đến chừng nào!

Bà chạnh lòng, ngồi im trên chiếc ghế sắt mà cu Tí vừa ngồi, và nhìn mênh mông nắng ngoài khung cửa, cũng vẫn ngôi nhà này, khung cửa sổ này, và nắng, và gió này có gì thay đổi? Vậy mà đã bao đổi thay của những người sống trong ngôi nhà.

Cách đây 15 năm hai vợ chồng bà cùng hai đứa con, đặt chân đến Mỹ, như bao nhiêu gia đình Việt Nam khác, ông bà đã đi làm chăm chỉ, dù công việc nặng nhọc, để kiếm tiền sinh sống và lo cho con ăn học. Họ kỳ vọng vào hai con, nhất là đứa con trai, ông bà mong ước chúng sẽ học lên Đại Học, có nghề nghiệp vững vàng, để ông bà được hãnh diện như người ta. Vậy mà đang học lớp 12 thì đùng một cái thằng con trai bỏ học, đòi lấy vợ, là một đứa bạn gái cùng lớp. Bà nghe như sét đánh ngang đầu, hết la mắng đến năn nỉ, và đe doạ một tương lai khổ cực khó khăn , vì cả hai cùng trẻ, học hành không đến nơi đến chốn, làm sao tạo dựng được một gia đình ? Nhưng nó khăng khăng giữ vững ý định, hai đứa đang yêu nhau, không thể sống thiếu nhau, hơn nữa cô gái kia đã có thai.

Hôm thằng con dẫn người yêu về ra mắt bố mẹ chồng tương lai, bà nhìn cô gái bằng ánh mắt không thiện cảm, nó là nguyên nhân làm con trai bà mê đắm, bỏ dở học hành, tương lai mù mịt và làm tan nát ước mơ của gia đình bà. Nhưng vì thương con, bà vẫn phải chấp nhận theo yêu sách của nó.

Đám cưới xong, chúng ở chung trong nhà bà, cái hạnh phúc ngây thơ ấy kéo dài cho tới khi thằng cu Tí chào đời, thì hai vợ chồng trẻ mới bắt đầu dối diện với thực tế.

Hai vợ chồng cùng đi làm, đủ thứ việc linh tinh theo khả năng của chúng, như ngồi trả lời điện thoại ở văn phòng Bác sĩ, làm ở nhà hàng hay chợ búa v..v..

Cô con dâu tuổi còn trẻ, còn mê ăn mê ngủ, lại bận đi làm, nên giao phó thằng cu Tí cho bà Nội. Bà từng là một người mẹ, có bao nhiêu kinh nghiệm, bao tình yêu thương bà đem ra lo cho cháu, dù nó vào nhà bà không đúng lúc.

Cu Tí ngủ với bà, mỗi đêm bà thức dậy mấy lần pha sữa cho nó bú, ban ngày bà chơi với cháu, tắm rửa cho cháu, hai bà cháu mà như hai mẹ con, bà thức khuya thấp thỏm lo âu khi cu Tí nóng sốt, bà quặn lòng khi cu Tí bị ho, bà xót xa khi cu Tí tập những bước đi đầu tiên, ngã sưng u cả trán.

Cu Tí giống bố như khuôn đúc, bà yêu nó như ngày xưa đã yêu thằng con trai. Nỗi thất vọng, buồn phiền vì con cũng nguôi ngoai theo ngày tháng, bà an phận, lo vun đắp cái hạnh phúc hiện tại, vậy mà hai vợ chồng trẻ cũng chẳng để bà yên, chúng thường xuyên cãi vã nhau, đánh nhau và đôi lần đòi li dị. Tình yêu tuổi trẻ nông nỗi như thế đấy, trời cũng không thể cản họ đến với nhau, nhưng rồi chóng chán, chóng vỡ mộng.

Bà đã bao lần khuyên giải cả con trai lẫn con dâu, bà sợ cuộc sống gia đình tan vỡ thì tội nghiệp  thằng cu Tí bé bỏng. Nhưng họ chưa kịp chia lìa nhau thì định mệnh đã ra tay, một hôm trên đường lái xe về nhà đã xảy ra tai nạn, con trai bà qua đời, cô con dâu bị thương nhẹ, sống sót.

Đứa con trai duy nhất của bà đã chết, bà tưởng như không thể sống nổi nếu không có thằng cu Tí, một hình ảnh của con trai bà, một dòng máu của gia đình bà. Bà mất con, cu Tí mất cha, càng đau đớn bà càng thương yêu đứa cháu nội côi cút.

Từ khi chồng chết, con dâu bà không ở chung nữa, dù cửa nhà bà vẫn rộng mở và hai ông bà vẫn rộng cả tấm lòng, muốn con dâu và cháu cứ ở chung như trước. Cũng may, con dâu thuê một căn phòng Apartment gần ngay đó, để tiện gởi cu Tí cho ông bà chăm sóc. Tội nghiệp đứa con dâu, mới 23 tuổi đầu, kiến thức, kinh nghiệm sống không là bao, làm sao nó có thể tạo dựng một cuộc sống với đứa con còn thơ dại?, nên trước mắt rất cần sự giúp đỡ của cha mẹ chồng như từ lúc cô bước chân vào làm dâu nhà này. Cô không muốn quay trở về nhà mình, mẹ cô đã chết từ lâu, cô sống với cha và bà mẹ kế chẳng vui vẻ gì.

Thế là ông bà có niềm vui là Cu Tí. Đứa con gái lớn của ông bà đã học xong đại học và lấy chồng, hiện sống ở tiểu bang khác.

Năm nay cu Tí 6 tuổi và học lớp Một, ông bà đưa đón cháu đi học.Chiều, mẹ cu Tí -  gìơ giấc mẹ nó cũng chẳng nhất định, khi sớm khi muộn -  lại sang đón con về. Con dâu bà có đời sống riêng của nó, đi sớm về muộn là quyền của nó, bà đâu dám hỏi, miễn sao nó để yên cho cu Tí sống gần ông bà như thế này mãi mãi.

Những lúc ngồi rảnh bà tính chuyện tương lai xa tít tắp của cu Tí cho ông nghe, cu Tí sẽ lớn lên trong ngôi nhà này, sẽ học trường Đại học ở thành phố này, những đồng tiền dành dụm ít ỏi của ông bà sẽ dành hết để lo cho cu Tí, nó sẽ đi vào con đường mà ngày xưa ông bà ước vọng dở dang nơi bố nó.

Ông thực tế hơn, chỉ cười thầm giấc mộng xa vời của bà, với ông, sống ngày nào biết ngày đó.

Tháng trước, con gái bà sinh đứa con đầu lòng, bà dự định đi California một tháng để thăm con, thăm cháu, bà đứt ruột khi phải rời xa cu Tí, bà dặn dò ông đủ thứ và tỉ mỉ từng chút một để ông thay bà trông cháu trong thời gian bà vắng mặt. Buổi chiều, trước ngày đi, bà đã ôm cháu vào lòng và thủ thỉ với nó:

- Mai bà đi California thăm bác của cu Tí có baby, cháu ở nhà với ông nội và với mẹ, ngoan nhé, một tháng sau bà lại về với cháu.

Làm như bà “xin phép” cu Tí vậy, thằng bé nghe bác nó có baby nên thích chí gật đầu và dặn dò bà đi chỉ một tháng thôi nhé, nhưng thật ra trong đầu óc ngây thơ của đứa bé 6 tuổi thì có hiểu một tháng là 30 ngày đâu. Bà mới ở California được một tuần lễ, ông đã gọi điện thoại kể cu Tí nhớ bà, gọi bà về, rồi ông đưa phone cho cu Tí, nó bật khóc nức nở trong phone : “ Bà ơi, cu Tí nhớ bà lắm, bà về đi…”

Tiếng khóc của cu Tí đã làm bà cảm động khóc theo, và không đành lòng ở lại thêm, bà thương con gái và cháu ngoại, nhưng họ còn có chồng, có cha ở bên cạnh, có một gia đình đầy đủ, họ không cần đến bà như cu Tí.

Thế là hôm sau bà lên máy bay trở về nhà, mặc cho cô con gái cằn nhằn, khó chịu.

Bây giờ bà đang ngồi đây, nắng chiều đã dịu nhưng hãy còn sớm lắm, cu Tí còn đang mải chơi game nên chưa chịu đi tắm rửa thì mẹ nó đã về tới. Xưa nay giờ giấc cô bất thường, nhưng bà vẫn ngạc nhiên:

- Hôm nay con về sớm thế?

Cô ngồi xuống ghế, đối diện mẹ chồng và im lặng. Bà dịu dàng bảo con dâu:

- Chốc con mang hộp cá bống trứng kho tiêu về mà ăn, mẹ kho khô đúng ý con đấy.

Nhưng cô vẫn không có vẻ quan tâm đến món ăn mà cô yêu thích, mãi cô mới lên tiếng:

- Ngày mai cu Tí và con sẽ rời khỏi nơi đây!

Bà sững sờ nhìn con dâu xem nó nói đùa hay thật mà ghê gớm thế, cái điều bà không bao giờ dám nghĩ đến Giọng bà run run:

- Tại sao con lại đi?...

Và tha thiết:

- Con hãy ở lại đây, mẹ sẽ trông thằng cu Tí cho con suốt đời, tới khi nào nó lớn thì thôi.

Cô con dâu ngại ngùng đáp:

- Con phải đi tiểu bang khác, hơn một năm qua, kể từ ngày cha nó mất, cu Tí đã ở bên cạnh ông bà Nội thế là đủ rồi.

Mặc cho gương mặt bà càng lúc càng thẫn thờ, cô nói tiếp những điều phải nói:

- Con lập gia đình khác, anh ấy chấp nhận nuôi cu Tí và xem nó như con. Mẹ cứ tin đi, cu Tí sẽ sống sung sướng, anh ấy làm nhiều tiền và thương yêu con.

Dường như không muốn nhìn bà mẹ chồng đang ngồi khóc, gương mặt bà ràn rụa nước mắt, nói xong cô đi vội vào trong phòng với cu Tí. Nửa tiếng sau, chẳng biết cô đã nói gì với con, cu Tí chạy ra hớn hở  khoe:

- Ông nội ơi, bà nội ơi, cu Tí sắp đi xa rồi, cu Tí sẽ có Ba mới, có nhà đẹp và thật nhiều đồ chơi.

Nó khựng lại, nhìn bà nội:

- Sao bà Nội khóc? Cu Tí đi một tháng rồi cu Tí về với bà nội mà!

Nó chợt nhớ lần bà nội chia tay nó đi California và hẹn một tháng sẽ về, trong lòng cu Tí cũng nghĩ đơn giản thế, nó sẽ trở về như bà nội đã trở về với nó.

Bà ôm chặt cu Tí vào lòng, đau đớn như vừa mất thêm đứa con thứ hai. Hôm bà đi California, chia tay cháu, bà buồn biết bao nhiêu, thì cu Tí nói chia tay bà hồn nhiên và sung sướng bấy nhiêu. Nó đâu hiểu rằng chuyến đi của nó không hẹn ngày trở lại.

Ông nội đã sắp xếp tất cả quần áo và đồ dùng của cu Tí đưa cho mẹ nó, cô chào cha mẹ chồng và dắt cu Tí ra khỏi cửa.

Bà nhìn theo, bên ngoài trời vẫn còn nắng mà bỗng dưng tối sầm trước mặt bà.

***

Ngày hôm sau, căn nhà chỉ còn hai ông bà trống vắng mênh mông, tới giờ buổi chiều đón cháu như thường lệ, ông bà ngồi nhìn nhau, không nói mà chắc cùng đau lòng như nhau!

Đáng lẽ giờ này ông đang đứng trước cổng trường đợi cu Tí tung tăng chạy ra và đưa tay ông nắm dắt về, có khi ông xách cái túi cặp cho cháu “đỡ mệt”.

Đáng lẽ giờ này cu Tí đang ngồi chễm chệ trên cái ghế sắt, cạnh cửa sổ, đung đưa hai chân, chờ bà nội cởi từng chiếc giầy.

Đáng lẽ giờ này cu Tí đang ăn cơm, đang uống sữa.

Đáng lẽ giờ này cu Tí đang…

Bao nhiêu hình ảnh thằng cu Tí trong ngôi nhà này đã  không còn nữa.

Bà bất chợt nhìn thấy một thằng lính nhỏ bằng hai ngón tay, món đồ chơi bằng nhựa mà cu Tí yêu thích còn sót lại trong gầm bàn, bà cúi xuống nhặt lên và không sao cầm được nước mắt, đây là món đồ chơi của nó từ năm lên 4 tuổi cho đến giờ, cu Tí đã từng khư khư cầm trong tay, từng ấp ủ trong túi áo, túi quần, vì sợ mất. Mỗi lần nó để lạc chỗ, không tìm thấy là khóc, chính bà phải đi tìm kiếm từng gầm giường, góc tủ, lấy ra bằng được thằng lính nhựa để lòng bà cũng vui sướng thảnh thơi khi nhìn cu Tí mỉm cười.

Ông đòi lại món đồ chơi để vứt đi cho bà bớt mủi lòng, nhưng bà giữ lại, để trong một cái giỏ, cẩn thận cất vào closet. Biết đâu một ngày nào đó cu Tí sẽ trở về?

Hai tuần sau, cô con dâu gọi phone cho bà như đã hứa, cô nói mọi việc đã ổn định vào nề nếp, cu Tí đã đi học một ngôi trường gần nhà, cô không đi làm, chỉ ở nhà trông con.

Cô đưa phone cho cu Tí nói chuyện với ông bà nội, nó chỉ nói vài câu rồi thôi vì đang mải chơi game, mặc cho bà nghẹn ngào hỏi “Cu Tí ơi, cháu có nhớ bà không? Bà nhớ cu Tí lắm…”

Trẻ con chưa biết bạc bẽo, chúng ngây thơ và chóng quên .

Vài ngày sau đó, bà gọi phone mong gặp cu Tí , dù chỉ để nghe nó nói vài câu ngắn ngủi , nhưng lúc thì cô con dâu trả lời lấy lệ và nhạt nhẽo, lúc thì gặp người chồng Mỹ của cô, ông ta có vẻ không hài lòng. Thế là bà ngại ngùng không dám làm phiền họ nữa, số phone ấy bà thuộc lòng, nhưng đành phải quên đi.

Cô con gái ở California một mực khuyên ông bà bán nhà về ở gần cô, nhưng bà không thể làm điều ấy.

Bà vẫn muốn ở lại đây, nơi còn ghi dấu những hình ảnh kỷ niệm của thằng con trai xấu số, nơi đứa cháu nội được sinh ra và bà đã nuôi nấng suốt 6 năm trời.

Bà vẫn muốn ở lại đây, để hi vọng, để đợi chờ mai này cu Tí trở về, nó sẽ ở ngôi nhà này, đây là gia tài của ông bà dành cho nó, rồi nó sẽ lớn lên, học đại học tại ngôi trường trong thành phố này.

Bà vẫn muốn ở lại đây, là cây cổ thụ già, để cu Tí là chiếc lá sẽ rụng về cội nguồn của nó.


Nguyễn thị Thanh Dương
Back to top
 
 
IP Logged
 
Tuyet Lan
Gold Member
*****
Offline


I love YaBB 1G - SP1!

Posts: 7023
Gender: female
Re: Những mẫu truyện ngắn
Reply #14 - 30. Mar 2014 , 17:38
 
Hạnh Phúc Xót Xa


T ôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới gởi qua đường bưu điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa lạ. Gần nửa giờ ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và mấy đứa con cũng chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại, một số không ít người Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc cưới của con cháu. Khách càng đông càng chứng tỏ được thế giá của gia đình. Vì vậy có người chỉ gặp ai ở đâu đó một lần thoáng qua, cũng có thể trở thành “quan viên hai họ”. Hơn nữa, ở cái vương quốc nhỏ bé và hiền lành này, muốn tìm ai cứ việc mở cuốn điện thoại niên giám hoặc vào guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ. Cũng có thể là do một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham dự được nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý nghĩa”?

Địa điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm ngoại ô thành phố Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng, nhưng lại đúng vào ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con gái và mừng thôi nôi thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ chồng cô con gái cũng đã lấy hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ hay cô dâu chú rể có tên trong thiệp mời chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tham dự được, huống hồ lại là một người nào đó không quen. Thấy tôi phân vân, bà xã cầm tấm thiệp màu hồng vất vào kệ sách, lắc đầu bảo “forget it!”

Sáng thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý, nghe điện thoại reo, tôi bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên kia đầu dây. Một người đàn bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng cả tên lẫn họ của tôi.

- Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị không ạ, vì xin lỗi tôi không nhớ ra.
- Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang Na-uy, anh làm thông dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne Bich, chắc anh chị đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy.

Tôi giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông dịch, giúp khá nhiều bà con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái tên làm sao nhớ hết. Hơn nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê Thị Bích Kiều thì tôi không thể nào quên.

Sau khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được đến thăm vợ chồng tôi vào lúc bốn giờ chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao nhiêu điều muốn nói.

Thời gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may mắn được chọn làm phụ giảng cho các lớp học tiếng Na-uy. Được thầy cô dạy kèm riêng, và nhờ phụ giúp mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất đắc dĩ cho những thuyền nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng tiếng Na-uy, một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam lúc ấy. Và cũng nhờ cái vốn bì bõm này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi được chọn làm thông dịch tạm thời cho Phòng Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian này Na-uy nhận một số lượng khá đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển và một số trường hợp nhân đạo khác.

Nói là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ, khai lý lịch ở Sở Cảnh sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha sĩ, hay vào bệnh viện khám và chữa bệnh.  Cũng qua công việc này, tôi mới thấy rõ Na-uy là một quốc gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử quá tốt với những người tỵ nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn nhã mà lương bổng cũng khá, lại còn được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới, nên sau này, khi đã được chính thức nhận vào học và đi làm trong ngành ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin giữ cái “job” phụ này, nhưng chỉ làm thêm ngoài giờ hành chánh.

Tuy nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn nghề nghiệp” không ít. Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của họ bị bọn hải tặc tấn công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên biển, tôi vừa không nén được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông dịch lại bằng tiếng Na-uy. Hơn nữa lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để diễn đạt những điều “tế nhị”. Ngày ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng cho người tỵ nạn, nằm trong Viện Đại Học Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là một giáo sư tâm lý học, điều hành. Ông là vị bác sĩ có lòng nhân hậu và rất tận tâm với nghề nghiệp. Những người tỵ nạn gặp điều không may, bị hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người thân trên đường vượt biển, đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như can thiệp Cơ quan Di Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm nhiều phương tiện sinh hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông dịch để ông tâm tình, khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo dài cả một vài ngày. Bởi vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm sao tôi có thể truyền đạt được những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông dặn dò:

- Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một ca điều trị. Có điều, những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa bằng ngôn ngữ.

Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi.  Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm những gì ông nói.

Một hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà Kari Mette ra phi trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận nhân đạo từ một trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan đến Na-uy, mà không qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người khác. Bà Kari Mette làm việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có nhiều khả năng và uy tín, nên được yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ Nạn trong khu vực thị xã.

Chúng tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi đón hôm nay là một cô con gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm chăn mỏng, được một cô tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng túi hành lý nhỏ và một phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu (logo) Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Trông cô ta tiều tụy, xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài lời chào mừng của bà Kari Mette. Khi đưa tay nhận bó hoa hồng từ bà, cô gật đầu, lí nhí hai tiếng cám ơn. Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái theo một lối đi riêng, không phải qua kiểm soát. Một chiếc xe tản thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ dìu cô gái lên nằm trên một băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu. Theo yêu cầu của cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh viện. Bà Kari Mette lái xe chạy theo sau.

Ở phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị bác sĩ, tôi mới biết cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc giam giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một lực lượng tuần cảnh phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn năm tháng, sức khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp cô sớm hồi phục sức khỏe và bảo vệ thai nhi.

Khi trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng đôi mắt thật buồn và ái ngại, Một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời. Tôi từ tốn bảo cô cứ yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần thiết phải trả lời, tôi sẽ liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau đó, tôi mới hiểu ra, người cô ngại chính là tôi chứ không phải ông bác sĩ. Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi đã nói với cô là những người làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết taushetsplikt (bổn phận bảo mật). Cô được y tá đưa vào phòng tắm rửa và thay áo quần bệnh viện. Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có khuôn mặt khá xinh, đôi mắt thật buồn. Theo y tá đưa cô lên một phòng riêng ở tầng ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường và đỡ cô ngồi dậy theo yêu cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của bác sĩ, hỏi cô thích ăn uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô ra về, sau khi chúc cô ăn ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô nhìn tôi, nói cám ơn rồi vội vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô băn khoăn lo lắng, khi phải ở lại một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp bệnh nhân hay y tá cần điều gì, cứ gọi cho tôi.

Kể từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người thân quen duy nhất của cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo bà xã tôi làm rồi mang đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập truyện của ông Duyên Anh mà cô thích đọc.

Sau một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết tâm trí chưa ổn định, cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa đêm. Cứ vài ngày, bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi và khuyên cô hãy đọc sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù gì nó cũng là giọt máu của mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề trong lòng, cô cứ nói ra mỗi lần ông đến thăm.

Cô không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những người tị nạn khác, mà do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại kiều đã đích thân đến bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi được biết cô gái sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt. Trước 75, mẹ cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng 1 di tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu. Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền nhỏ chở theo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên tàu và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời khỏi thuyền, chúng phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi hai tên trong bọn kéo Kiều đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những cô gái khác

Vừa mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng bắt theo. Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn sóng dường như cũng đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát, không bị hiếp, nhưng bị cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng kiến hành động dã man, bỉ ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hải đau đớn uất hận tột cùng của những cô gái nạn nhân.

- Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi.

- Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.

Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.

Tay thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những cô gái khác. Hắn săn sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô ăn, nhưng cô không thể nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một ngày trong phòng lái, khi nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc, giật mình thức dậy, cô thấy tàu cặp vào một hòn đảo.

Sau khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng cõng cô trên lưng, lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô gái khác. Số phận họ ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu khóc hãi hùng của ngày hôm qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng họ bị hiếp cho đến chết, rồi quăng xác xuống biển. Thật thảm thương tội nghiệp. Nhưng dù sao họ cũng không phải sống cả một đời thừa thải trong nỗi dày vò, mặc cảm và vô vọng như cô. Biển xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân xác lẫn linh hồn họ. Là cánh hoa tả tơi duy nhất còn sót lại sau một ngày đêm dông bão, cô ví mình chẳng khác nào rác rưởi tắp vào một nơi hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may mắn?

Anh cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt lên trần nhà để giấu những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho cô gái và cho cả anh ta, một người sinh ra và lớn lên trên một vương quốc an bình, giàu có, hà cớ gì phải khóc cho nỗi đau thương, bất hạnh của dân tộc tôi. Chúng tôi dừng lại khi thấy cô gái sụt sùi. Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ giấy soft cho cô lau nước mắt và mời cô một ly nước saft.

- Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu thoát? Anh cảnh sát hỏi.

- Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những lần trước.

Đó là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm hôm, có khi cả tuần lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác “chiến lợi phẩm”, rồi lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ lấy thêm nhiên liệu, lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới lưng, cả ngày chỉ mặc một cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen đúa với đầy những hình xâm. Không biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng Thái hay là bản tính ít nói, cả ngày hắn lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô ăn và bắt cô uống rượu. Miệng hắn lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu. Rượu giúp hắn trở thành con hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn lột hết áo quần cô, làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm hồn cô đã trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu đựng đau đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ.

Bọn họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung quanh vắng lặng, ngoài tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi khá lâu mới đứng dậy được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường ra biển. Hôm nay trời nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe như có tiếng gọi tên mình, cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô gái đồng hành bất hạnh. Cô xăn quần lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước biển làm rát khóe mắt, nhưng giúp cô tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho sóng cuốn đi là cô sẽ gặp lại người tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển có thể rửa bớt phần nào nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn dò phải cố giữ gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng bất động nghe lòng dạ bồi hồi.

Gió từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm lại một chút yên ả. Cô bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và hai đứa em nhỏ dại. Giờ này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc trên một hoang đảo xa lạ giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề, hay là vẫn đang hy vọng đứa con gái, người chị của mình đã đến được một xứ thiên đường nào, để có thể cứu sống cả gia đình đang ở bước đường cùng. Bao nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm được, kể cả chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ ngày vu quy, cũng chỉ đủ gom góp mua một cây vàng, và phải năn nỉ lắm mới được đóng trước một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày cha cô vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội gởi xác thân ở một nơi vô danh nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc một thời, bỗng dưng trở nên đói nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình sĩ quan công chức khác, mẹ con cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải bỏ học, phụ mẹ buôn tảo bán tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no.  Nghĩ đến tương lai mịt mờ của mấy đứa con, mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất, là cô phải ra đi. Bao lần tìm được mối, nhưng lo cho thân gái dặm trường, có biết bao điều bất trắc, cuối cùng bà rất vui mừng khi có người yêu của cô, cũng là con của một người bạn cùng khóa với chồng, cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình gặp nhau, tổ chức một lễ đính hôn rất vội vàng, đơn giản.

Cô bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình dung tới tuổi ấu thơ và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy năm cha cô được đổi về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã gặp mẹ cô, khi còn là một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã quỳ xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa, giữa không khí uy linh, đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông. Cô cũng nhớ tới đám bạn bè một thời nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn nhiên ngày ấy, giờ tản mác trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả đã mất rồi, cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không bao giờ còn tìm lại được!

Đầu óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ hồ Xuân Hương thơ mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu hò hẹn người yêu, cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị giam lỏng từ mấy hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển. Ngồi bệt xuống cát, thẫn thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô gọi đến khan cả cổ, để chỉ nghe tiếng mình dội lại từ đại dương mênh mông xa thẳm, không tìm thấy chân trời. Cô đã bật khóc.

Tôi định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho anh cảnh sát, đang hồi hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh sát đứng lên nháy mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự nhiên.  Khi trở vào, anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho mẹ và các em còn ở Việt Nam, anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ cho cô được ưu tiên. Có thể trong vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được đoàn tụ với gia đình. Suy nghĩ một chập, cô lắc đầu:

- Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ đau buồn vì những gì em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn đang giấu mẹ. Chờ sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù em rất nhớ mẹ và các em.

Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ sơ.

Hai hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số tiền 10.000 kroner  (khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên vào biên nhận.Tôi cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo là cô rất thèm. Gặp lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô nhoẻn miệng cười. Cô bảo cô rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô chẳng biết trò chuyện cùng ai. Cô ngạc nhiên và thoáng một chút xúc động khi tôi đưa cho cô số tiền của Phòng Xã Hội, và bảo đó là tiền cô được cấp, chứ không phải mượn. Tôi giải thích thêm về những trợ cấp khác dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và hằng tháng sau này, cũng như trợ cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên tâm, đừng lo lắng gì về chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn khi nghe tôi bảo trước đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con cũng khốn cùng như gia đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may mắn được tàu Na-uy vớt, mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn định. Cô nhớ tới cha cô, đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe những ngày cô theo cha ra đơn vị, hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự các buổi lễ ra trường. Khi tôi đứng dậy cáo từ, cô viết tên và địa chỉ của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số tiền còn nguyên trong bì thơ về cho mẹ. Trong mắt cô sáng lên niềm vui.

Một lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo là ở Na-uy vừa mới có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để xin cho cô. Hai hôm sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng, nói và viết vài câu đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô còn nhờ tôi viết cho cô vài câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo là lời một bản nhạc nào đó mà cô rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.

Khi được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay sau đó tôi thấy cô ngồi thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi xin phép cô cho bà xã tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người đàn bà thân quen bên cạnh cũng an tâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói trước là vợ tôi hoàn toàn không biết gì về hoàn cảnh của cô, và tất nhiên tôi không hề tiết lộ điều gì. Tôi sẽ nói với vợ tôi là chồng cô còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được định cư sau. Ngần ngừ một lúc, cuối cùng cô gật đầu.

Cuối tuần, vợ chồng tôi đến thăm. Vợ tôi mang đến cho cô một it thức ăn Việt nam và mấy bộ áo quần con nít. Đàn bà dễ thông cảm với nhau, nhất là vợ tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt chồng, vì tôi bận tham dự hành quân, không về kịp. Tôi ra ngoài, để cho hai người đàn bà dễ nói chuyện sinh đẻ.

Cô sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết rơi kín cả khung trời. Vợ chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở bên cạnh cô, còn tôi ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh. Khoảng hơn 30 phút, tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng vợ gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy cô khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.

Sau một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn, được phòng xã hội mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà thích hợp cho cô. Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện cho các y tá đến thăm và chăm sóc mẹ con cô.

Mấy ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô mà để làm thông dịch cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến cho con cô nhiều quà tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói vài câu ngắn bằng tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff  hỏi là cô có cần ông giúp điều gì nữa không, cô bập bẹ trả lời: “tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi người đều hiểu được.

Ngày đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô. Chúng tôi ghé siêu thị chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa không mở. Gõ nhẹ cũng không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi. Họ cho biết là cô vừa mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho biết là cô đã chuyển đi một thành phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ không tiết lộ địa chỉ mới cho bất cứ một ai. Sau một thoáng ngạc nhiên, tôi chợt nhớ đến lời một bài ca nào đó mà cô đã nhờ tôi viết ra bằng tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc lại nhiều lần: “ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. Trên đường về, bà xã tôi thắc mắc tại sao cô lại chuyển đi sớm và không cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc dù tôi đã vừa mới hiểu ra.

Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô, tôi định hỏi thăm qua một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ Nạn. Nhưng rồi tôi quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi, một người biết quá nhiều về cô.

* * *

Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước. Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45,46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn còn trẻ đẹp. Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.

- Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao đi có một mình ên còn ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?

Câu nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười sau một thoáng thẹn thùng:

- Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm mai đây.

Chúng tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm hồng vàng vừa mới nở hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang nước ra mời và ngồi nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm phấn son xong mới lên tiếng:

- Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ.

Cô cười bẽn lẽn:

- Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em còn đau xót lắm, nên muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người Việt nào và nhất là những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và mang ơn anh chị.

Tôi cười:

-  Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc Kiều còn nhớ cái câu tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ tôi viết ra và chỉ cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo rất thích câu ấy trong một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu được, nên không có ý tìm Kiều.

Đúng là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi thành phố Ålesund. Ở đó không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và dân chúng rất tốt. Mẹ con cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ và hai cậu em sang đoàn tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và trong giấy khai sanh có cha là Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của Kiều. Anh đã bị chính cha ruột của thằng bé giết chết thảm thương rồi vất xác xuống biển. Kiều giấu kín mẹ và các em điều đau thương này, nên đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa cháu ngoại duy nhất của mình là con của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim, khi sang Na-uy được mười sáu năm.

Được chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông con cùng mọi việc trong nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều xong đại học. Hai cậu em đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi hai cậu em được nhận vào trường NTH , một đại học kỹ thuật bách khoa nổi tiếng tại thành phố Trondheim, miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về đây sau sáu năm ở Ålesund. Cháu Huy Bách, con của Kiều cũng vừa tốt nghiệp ở trường này mùa hè năm ngoái.

- Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con Kiều cùng hai cậu em, và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là chúng tôi không có dịp được gặp bà.

Đang vui, bỗng Kiều xúc động:

- Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất vả với con cháu. Em vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu Bách.

- Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm đau lòng thêm những người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ. Tôi tin là bác ra đi thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi nói để an ủi .

Bà xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi, hỏi Kiều:

-  Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy tên Bích Kiều đẹp lắm. Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc Bích Kiều. Mấy cô con gái đều đẹp. Tôi  quen cả hai chị em.

-  Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba chìm bảy nổi quá, mà dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng là chữ lót của em.

Tôi cười phụ họa:

-  Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt tôi là Bích. Một cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin lỗi, đáng lẽ ra không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi tên Bích nghe.

-  Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều mà. Ngoài gia đình, chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng đã qua rồi. Em muốn anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em biết, ngày ấy anh chị cũng thương yêu cô Kiều đó lắm , phải không?

Cả ba chúng tôi đều cười.

Kiều nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ. Không biết vì không muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời gian, cô bắt đầu một câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho chúng tôi xem. Ảnh của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai trong ngày lễ đính hôn hơn ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai cô cậu đều đẹp, mũi cao, đôi mắt to, vầng trán thoáng lên nét thông minh.

-          Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.

Cô cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp, con gái út của vợ chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy, và bây giờ lớn tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp, đạo đức, có năm người con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi, tuổi tác ngang với cha mẹ cô dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày đám cưới. Nhưng điều quan trọng hơn, theo cô, là để cho cháu Bách, và chính cô nữa, được tự tin, ấm áp hơn về phía gia đình mình. Bởi vợ tôi là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn tôi là người đồng hương duy nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có Bách hiện diện trên thế gian này.

- Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một kỷ niệm thiêng liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị, em sẽ có cảm giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em cũng đã nói dối với cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết chuyện Trác, và tội nghiệp, cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em thường bắt gặp cháu đứng thật lâu trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn thờ.

- Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với cháu?

Nghĩ ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:

- Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội, nên biết ba của anh Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ lắm. Em thiết tha mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy thật lo sợ và cô đơn. Những hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được từ lâu rồi, vậy mà bây giờ nó lại hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc ngủ của em. Thú thực, ban đầu em không có ý định gặp anh chị, nhưng càng gần ngày đám cưới cháu, em càng thấy lòng bất an. Cuối cùng bất ngờ em đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường tận hoàn cảnh của mẹ con em, bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được những gì cứ phải chôn giấu, đè nặng mãi trong lòng.

Nhớ tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:

-  Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng hay vẫn ở chung với cô?

-  Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm thì chia tay, còn cậu út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.

Cuối cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London. Phải gọi sang xin lỗi và giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc ba má cần làm để giúp cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh phúc.

Lễ thành hôn được tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn Royal Christiania khi trời vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu chói chang rọi qua những tàn cây tạo thành những vệt lung linh trên các bãi cỏ xanh điểm những chấm vàng rực rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ. Họ nhà trai dùng khách sạn này, nơi mẹ con Kiều và hai cậu em đang ở mấy hôm nay, làm “điểm xuất phát”. Từ Trondheim xuống, nên họ chỉ có bốn người. Thêm một cậu người Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách làm phụ rể. Vợ chồng tôi đến với hai cô con gái và ba đứa cháu, để bưng các mâm lễ vật, theo yêu cầu của Kiều. Lần đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra đời vào một đêm đông tuyết giá, trong nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ có vợ chồng tôi, hai người đồng hương xa lạ, có mặt và nghe tiếng khóc đầu đời, bây giờ là một thanh niên tuấn tú, có học, chân thật hiền lành. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói tiếng Việt rất giỏi. Bất giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát ngoại kiều trước kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét gào phẫn nộ, và hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng, trên người đầy những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men rượu. Bỗng tôi giật mình, có cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng hướng tâm trí tới những điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết những hình ảnh đen tối ấy vào giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và hạnh phúc.

Lễ thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là nhà giáo, hiểu biết và tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục do ông bà hướng dẫn khá tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép. Tôi mừng cho Kiều, và nhất là cho cháu Bách đã may mắn là con rể của gia đình này. Có lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều với lòng mến mộ, sau khi lạy ông bà trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô dâu chú rể đến dâng rượu và xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một lạy cảm tạ công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ, mất chồng từ khi còn rất trẻ, nhưng không bước thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy nhất của mình. Một lạy xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha bất hạnh, sớm lìa đời khi chưa thấy mặt con.

Khi vợ chồng cháu Bách mời rượu, nói những lời cám ơn thật cảm động, Kiều âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì, nhưng rồi nghẹn ngào. Sau một lúc mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt. Tôi thấy lòng bâng khuâng. Thầm mong đó không phải là những giọt nước mắt xót xa mà là niềm vui của hạnh phúc.

Không khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.

Phạm Tín An Ninh
Back to top
 
 
IP Logged
 
Pages: 1 2 3 
Send Topic In ra